Thơ ca, một hình thức nghệ thuật ngôn từ lâu đời nhất của nhân loại, vẫn luôn là một câu hỏi mở, khơi gợi những định nghĩa và cách tiếp cận đa dạng. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, các nhà thơ, nhà phê bình, và độc giả đã không ngừng tìm kiếm câu trả lời trọn vẹn nhất cho câu hỏi “Thơ Ca Là Gì?”.
1. Thơ Ca Trong Quan Niệm Cổ Điển Phương Đông
Trong nền văn học cổ điển Trung Hoa, khái niệm về thơ đã được hình thành từ rất sớm. Lưu Hiệp, trong Văn tâm điêu long, đã nhấn mạnh ba yếu tố quan trọng cấu thành một bài thơ: tình cảm, ý nghĩa (tình văn), ngôn ngữ (hình văn) và âm thanh (thanh văn).
Lưu Hiệp, tác giả “Văn tâm điêu long”, người đặt nền móng cho lý luận về thơ ca với sự nhấn mạnh vào tình, ý, ngôn ngữ và âm thanh.
Đến đời Đường, Bạch Cư Dị tiếp tục phát triển quan niệm này, chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa các yếu tố cấu thành thơ: “Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. Quan niệm này cho thấy thơ là một chỉnh thể thống nhất, sống động, trong đó các yếu tố tình cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ý nghĩa gắn bó chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau.
2. Thơ Ca Trong Cái Nhìn Hiện Đại Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, câu hỏi “thơ ca là gì?” cũng nhận được nhiều cách giải thích khác nhau.
Trước hết, thơ ca được xem là một hình thức sáng tác văn học phản ánh đời sống, một thể loại văn học xuất hiện sớm nhất và có phạm vi ảnh hưởng sâu rộng. Về hình thức nghệ thuật, thơ là một cấu trúc ngôn từ đặc biệt, trong đó các câu thơ được sắp xếp theo nhịp điệu, tạo nên một hình thức có tính tạo hình riêng. Mỗi câu thơ là một sự sắp xếp ngôn ngữ có chủ ý, thể hiện qua cách dùng từ, hình ảnh, số chữ, nhịp điệu, vần, thanh điệu và các biện pháp tu từ.
Trang thơ viết tay thể hiện sự trau chuốt và dụng công của người nghệ sĩ trong việc lựa chọn ngôn từ và sắp xếp câu chữ để tạo nên tác phẩm.
Về nội dung và ý nghĩa, thơ là một thể loại trữ tình, là tiếng nói của tâm hồn. Thơ là tiếng nói của cảm xúc, là người thư ký trung thành của trái tim, là tiếng nói thầm kín của nội tâm. Nguyễn Đình Thi đã từng nói: “Thơ là tiếng nói đầu tiên, là tiếng nói thứ nhất của tâm hồn con người khi đụng chạm với cuộc sống”.
Về giá trị, chức năng và tư tưởng, thơ ca là tấm gương phản ánh cuộc sống và đặc biệt thể hiện đời sống tâm hồn của con người. Thơ là trạng thái tình cảm cao độ, tràn đầy, đòi hỏi được thể hiện qua hình thức nghệ thuật. Con đường để thơ đến với người đọc là “từ trái tim đến trái tim”. Người nghệ sĩ, từ sự rung động trước cái đẹp, sẽ lan truyền những rung động đó tới người đọc.
Trái tim và ngòi bút thể hiện sự hòa quyện giữa cảm xúc chân thành và khả năng biểu đạt tinh tế của người nghệ sĩ.
Cảm xúc mạnh mẽ của nhà thơ có thể tạo nên những câu thơ có tầm tư tưởng, tác động đến nhận thức của người đọc. Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh. Các thi sĩ sử dụng các thao tác tư duy như phân tích, khái quát, tưởng tượng để sáng tạo nghệ thuật, tạo nên những câu thơ lấp lánh chất trí tuệ, triết lý.
Định nghĩa về thơ của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học được xem là khái quát nhất: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”. Định nghĩa này nhấn mạnh cả nội dung (phản ánh đời sống, thể hiện tâm trạng, cảm xúc) và hình thức nghệ thuật (ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh, nhịp điệu) của thơ.
Xuân Diệu khẳng định: “Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người.”
3. Phương Thức Biểu Hiện Của Thơ
Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Dù thuộc loại hình nào, yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm.
Nhân vật trữ tình (cái tôi trữ tình) là người trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó mật thiết với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả.
Thơ là tiếng nói của tình cảm, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Thơ biểu hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm thơ chân chính luôn mang ý nghĩa khái quát về con người, cuộc đời và nhân loại. Thơ là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian.
Thơ thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng luôn có ít nhất một sự kiện làm nảy sinh rung động thẩm mỹ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ, và văn bản thơ là sự thể hiện của niềm rung động ấy.
Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác. Do đó, nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua hình tượng thơ, ngôn ngữ nghệ thuật, dòng thơ, vần điệu và tiết tấu. Cảm xúc có thể vượt ra ngoài cái vỏ ngôn từ, tạo điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống, suy nghĩ và trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả.
Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ có được còn do ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dòng, hiệp vần, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu làm tăng sức âm vang, lan tỏa và thấm sâu của ý thơ.
Hình ảnh người đọc đắm chìm trong trang sách, thể hiện sự kết nối sâu sắc và trải nghiệm đồng điệu mà thơ ca mang lại.
4. Ngôn Ngữ Thơ
Ngôn ngữ thơ mang đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật nói chung: là chất liệu và công cụ của nhà văn, nhà thơ. Ngôn ngữ trong văn học dựa vào ngôn ngữ đời sống nhưng được nghệ thuật hóa, cách điệu hóa. Nhà văn, nhà thơ sử dụng ngôn ngữ một cách trau chuốt, sáng tạo để tạo ra một thứ ngôn ngữ giàu có, sang trọng và đẹp đẽ.
Ngôn ngữ văn học phải có tính hệ thống, chính xác, truyền cảm, hình tượng, hàm súc, đa nghĩa và cá thể hóa. Ngoài ra, ngôn ngữ văn học cần phải trong sáng, phù hợp chuẩn mực để người tiếp nhận có thể hiểu và chấp nhận sự mới lạ.
Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình. Ý nghĩa của văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thể hiện trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ mà qua lời thơ, tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi nên. Ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống đòi hỏi người đọc phải chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý thơ bên trong.
Ngôn ngữ thơ trước hết là ngôn ngữ đời sống, và nhiều khi không khác biệt với ngôn ngữ đời sống. Tuy nhiên, ngôn ngữ thơ không hẳn là thứ ngôn ngữ nguyên sinh của đời sống mà là ngôn ngữ của sự sáng tạo, không ngừng biến sinh và có ma lực riêng, nhiều khi thoát khỏi ý thức của người cầm bút trở thành một ám ảnh vô thức. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ được chưng cất công phu vì “bài thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngôn ngữ, một tổ chức chặt chẽ, tinh tế của ngôn ngữ” hoặc “thơ là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ”.Bởi vậy ngôn ngữ thơ góp phần tích cực tạo nên giá trị thẩm mĩ, làm phong phú thêm ngôn ngữ đời sống.
Ngôn ngữ thơ có tính tư tưởng: Thơ phải giúp nhà thơ bộc lộ tư tưởng, tình cảm nên tư tưởng trong ngôn ngữ thơ như chiếc dây diều đưa thơ cất cánh bay cao, bay xa trong bầu trời của thực và mộng vừa neo thơ lại bầu khí quyển của đời sống.
Nhìn chung, ngôn ngữ thơ có vai trò, sức mạnh vô song mà ngôn ngữ các thể loại khác khó có thể có được. Ngôn ngữ thơ có thể tác động mạnh đến người đọc và nâng cao nhà thơ lên một tầm mới, làm nên tên tuổi nhà thơ.
5. Đặc Trưng Của Ngôn Ngữ Thơ
So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ trữ tình có những điểm khác biệt như giàu tính nhạc, họa, hàm súc và truyền cảm.
5.1. Ngôn Ngữ Thơ Giàu Chất Nhạc và Chất Họa
Thơ – nhạc – hoạ đều là các loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt về chất liệu xây dựng hình tượng. Thơ sử dụng ngôn từ, chất liệu phi vật thể, tác động vào liên tưởng của con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu.
a. Nhạc Tính
Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét của ngôn ngữ thơ ca.
Tính nhạc trong thơ được gợi lên từ âm thanh trầm bổng của tự nhiên, đời sống. Ví dụ:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cẩm ve lầu tịch dương
(Nguyễn Trãi)
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
(Quang Dũng)
Nhạc tính trong thơ được thể hiện qua sự cân đối, trầm bổng và trùng điệp. Sự cân đối là sự tương xứng hài hòa giữa các dòng thơ. Sự trầm bổng thể hiện ở cách hòa âm, ở sự thay đổi độ cao giữa hai nhóm thanh điệu. Sự trùng điệp thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú.
b. Chất Họa
Chất họa trong thơ nghĩa là nhà thơ dùng hình ảnh, màu sắc, đường nét làm phương tiện diễn đạt tình cảm của mình.
Thơ ca phản ánh cuộc sống qua hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh. Hình ảnh trong thơ mang vẻ đẹp trực quan, sinh động. Có những hình ảnh đẹp đẽ, hài hòa, thơ mộng, mềm mại, nhưng cũng có những hình ảnh khắc khổ, gớm ghiếc. Ngôn ngữ mang tính hình tượng phải hợp lí, tránh khiên cưỡng, gò ép, áp đặt. Nó là kết quả của khả năng quan sát tinh tế, nhạy bén, vốn sống phong phú và trình độ sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của người nghệ sĩ.
Hình ảnh trong thơ là sự khách thể hóa những rung cảm nội tâm, là điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Hình ảnh trong thơ mang màu sắc của cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng phong phú.
5.2. Ngôn Ngữ Thơ Có Tính Hàm Súc
Tính hàm súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại ngôn ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất.
Thơ ca thường sử dụng từ ngữ rất “tiết kiệm”. Tính hàm súc của ngôn ngữ thơ chứa đựng các thuộc tính khác: chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của người nghệ sỹ.
Để đạt được tính hàm súc cao nhất, thơ ca phải tính đến những kiểu tổ chức đặc biệt. Dưới áp lực của cấu trúc ngôn ngữ khác thường, ngữ nghĩa của từ trong thơ không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà phong phú, sâu sắc, tinh tế hơn.
5.3. Ngôn Ngữ Thơ Có Tính Truyền Cảm
Ngôn ngữ thơ có tác dụng gợi cảm đặc biệt. Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách quan như ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nhà thơ dùng ngôn ngữ để truyền cảm, khơi gợi cảm xúc, thể hiện tâm trạng, đánh giá trực tiếp và tạo nên sự đồng cảm.
6. Nhịp Điệu Trong Thơ
Nhịp điệu là sự rung động tâm hồn, là mạch cảm xúc được thể hiện ngoài lớp vỏ ngôn từ, tạo tác động, ấn tượng lên tâm thức người tiếp cận tác phẩm để thực hiện chức năng thông tin thẩm mỹ. Nhịp điệu trong thơ là sự chia cắt dòng âm thanh, sự phân đoạn câu thơ, dòng thơ giúp người đọc cảm thụ một cách trực tiếp.
Nhịp điệu gắn liền với chỗ ngừng, chỗ ngắt được phân bố hợp lý theo mạch cảm xúc để diễn đạt nội dung thẩm mỹ. Cảm nhận được nhịp điệu của thơ sẽ tạo nên sự khám phá mới, thú vị. Nhịp điệu thay đổi tạo nên cảm giác lời thơ vận động nghệ thuật theo quy luật chủ quan của chủ thể sáng tác đồng thời tác động đến tâm lý tình cảm của chủ thể tiếp cận theo chức năng thông tin thẩm mỹ.
7. Giọng Điệu Trong Tác Phẩm Văn Học (Bao Gồm Cả Thơ)
Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc diệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,…
Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc.
8. Âm Điệu Trong Thơ
Âm điệu là sự hòa điệu giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ, là dạng thức hết sức vi diệu của điệu hồn trong thơ. Cảm xúc được gợi ra từ nghệ thuật tổ chức các yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, thanh điệu, vần điệu, giọng điệu… thể hiện điệu hồn, chiều sâu xúc cảm, tinh thần của bài thơ.
Âm điệu là phương tiện đắc lực trong việc thể hiện cảm xúc và linh hồn của bài thơ, cảm xúc hóa thân trong âm điệu thơ.
Đọc thơ, cảm được âm điệu coi như đã nhập được vào hồn thơ, chạm vào được “cõi thơ” thực sự. Âm điệu không chỉ có ý nghĩa với người sáng tác mà còn là sự định hướng, gợi mở cho người tiếp nhận, cần nắm bắt âm điệu thơ để đến được điệu hồn thi phẩm.
Tóm lại, “thơ ca là gì?” không có một câu trả lời duy nhất. Thơ ca là sự kết hợp hài hòa giữa nội dung (phản ánh đời sống, thể hiện tâm trạng, cảm xúc) và hình thức nghệ thuật (ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, âm điệu). Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, là sự rung động của trái tim trước cuộc đời. Thơ ca là sự sáng tạo không ngừng, là sự tìm tòi và khám phá những vẻ đẹp tiềm ẩn của ngôn ngữ. Và hơn hết, thơ ca là sự đồng cảm và kết nối giữa người với người, là nguồn cảm hứng bất tận cho cuộc sống.