Trong văn học Việt Nam, tiếng cười trào phúng không chỉ là vũ khí đả kích xã hội mà còn là phương tiện để mỗi cá nhân tự nhìn nhận và phê phán chính mình. Tự trào, hay tự giễu, là một hình thức đặc biệt của trào phúng, nơi chủ thể hướng sự phê phán vào bản thân, vào những khiếm khuyết, bất lực của chính mình. Nguyễn Khuyến, một nhà thơ lớn của dân tộc, đã sử dụng hình thức tự trào một cách sâu sắc và đa dạng trong các tác phẩm của mình.
Nhìn vào sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến, chúng ta thấy ông là một bậc thầy của nghệ thuật tự trào. Ông không ngần ngại đưa bản thân ra làm đối tượng để chế giễu, mỉa mai. Tiếng cười tự trào của Nguyễn Khuyến không chỉ là sự hóm hỉnh, tinh quái mà còn chứa đựng nỗi chua xót, ngậm ngùi trước thời cuộc.
“Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang/ Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng/ Mở miệng nói ra gàn bát sách/ Mềm môi chén mãi tít cung thang…”. Những dòng thơ tự họa này vẽ nên một con người có vẻ ngoài bình thường, thậm chí có phần gàn dở, nhưng ẩn sâu bên trong là bi kịch của một trí thức muốn giữ gìn sự thanh liêm nhưng lại bị giằng xé giữa “ân vua” và trách nhiệm với dân.
Nguyễn Khuyến tự cười mình là kẻ “chạy làng” vô trách nhiệm trước thời cuộc. Đây là sự tự giễu cợt sự bất lực của bản thân trước những biến động của xã hội. Trong khi người đời lo lắng, ông lại cảm thấy mình vô dụng, là “người thừa”. Tiếng cười tự trào ở đây mang một sắc thái chua xót, ngậm ngùi, thể hiện sự day dứt trong tâm hồn nhà thơ.
“Cờ đương dở cuộc không còn nước, Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.” Sự chơi chữ thâm thúy ở đây thể hiện nỗi đau mất nước. “Không còn nước” không chỉ là ván cờ hết nước đi mà còn là đất nước rơi vào tay giặc. Nguyễn Khuyến tự trách mình không làm được gì cho dân, cho nước, cảm thấy hổ thẹn với trời đất.
Tiếng cười tự trào của Nguyễn Khuyến không chỉ là sự tự phê phán cá nhân mà còn là sự phê phán cả một tầng lớp trí thức đương thời. Danh vị tiến sĩ trở thành trò hề, thứ đồ chơi để “dứ thằng cu”. Mỗi lần nhìn thấy hình nộm ông Tiến sĩ, Nguyễn Khuyến lại tự bỡn cợt: “Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ/ Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”.
Bên ngoài lời nói là sự cười nhạo bản thân, tự ti, tự trách mình kém cỏi, nhưng sâu bên trong là bản lĩnh, là sự tự ý thức về giá trị của bản thân. Cười mình là giễu đời. Phủ định cũng là khẳng định. Nguyễn Khuyến đem “cái tôi” của mình ra để tự chế giễu, tự chê trách cũng là cách trào phúng cả một tầng lớp đại diện cho nền học vấn đã hết thời.
Nguyễn Khuyến sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, khi xã hội phong kiến suy tàn và thực dân Pháp xâm lược. Ông chứng kiến sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, sự tha hóa của quan lại và nỗi khổ của người dân. Sự khủng hoảng về lý tưởng, sự thất vọng về thực tế đã đẩy ông đến con đường tự trào.
“Mở miệng nói ra gàn bát sách, Mềm môi chén mãi tít cung thang.” Hình ảnh một ông lão say mèm là hình ảnh của sự bất lực và chán chường. Rượu là phương tiện để trốn đời, lánh đời. Tiếng cười tự trào của Nguyễn Khuyến mang đặc điểm cái bi lấn át cái hài. Nó xuất phát từ cuộc đời ông và thời cuộc nhiễu nhương bấy giờ.
Tóm lại, tự trào là một hình thức nghệ thuật độc đáo trong thơ văn Nguyễn Khuyến. Nó không chỉ là tiếng cười giễu nhại bản thân mà còn là sự thức tỉnh về trách nhiệm cá nhân, về vai trò của trí thức trong xã hội. Thông qua tiếng cười tự trào, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc và để lại cho đời những bài học quý giá.