Ánh Trăng Của Ai?

Cát trắngÁnh trăng là hai tập thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy, người con của quê hương trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Thơ ông mang đến cảm giác tươi mới, gần gũi như bóng tre làng, như con sóng vỗ về bờ sông thơ ấu, đậm đà hương vị đồng quê.

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm. (Đò Lèn)

Những vần thơ như Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Đò Lèn đã khắc sâu vào trái tim người đọc. Bài thơ Ánh trăng, trích từ tập thơ cùng tên, được Nguyễn Duy viết năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh, 3 năm sau ngày đất nước thống nhất. Tác phẩm là lời tâm sự sâu sắc, vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tuổi thơ, của những năm tháng kháng chiến gian khổ, một lời nhắc nhở đừng bao giờ lãng quên quá khứ.

Trong Tre Việt Nam, câu thơ lục bát được tách thành nhiều dòng để tăng hiệu quả biểu đạt. Còn trong Ánh trăng, Nguyễn Duy lại có một cách thể hiện khác, chữ đầu dòng thơ không viết hoa. Có lẽ, ông muốn cảm xúc tuôn trào tự nhiên, như dòng chảy của thời gian và kỷ niệm.

Hai khổ thơ đầu tiên vẽ nên bức tranh về vầng trăng của tuổi thơ và thời chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ bao trùm một không gian rộng lớn:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể.

Hai câu thơ mười tiếng, với vần lưng “đồng – sông” và điệp từ “với” lặp lại ba lần, diễn tả một tuổi thơ đầy ắp trải nghiệm, được đắm mình trong vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên, được ngắm trăng trên đồng lúa, trên dòng sông và trên bãi biển. Một ký ức đẹp đẽ mà không phải ai cũng may mắn có được.

Tiếp theo, những dòng thơ đưa ta về những năm tháng chiến tranh, trăng trở thành người bạn tri kỷ của người lính:

Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.

“Tri kỷ” là hiểu bạn như hiểu chính mình, là người bạn thân thiết, thấu hiểu mọi điều. Trong những năm tháng ở rừng, trăng đã trở thành người bạn tâm giao của người lính, của Nguyễn Duy. Hình ảnh người chiến sĩ “Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm” (Hồ Chí Minh), hay “Đầu súng trăng treo” (Chính Hữu), những “nẻo đường trăng dát vàng” đã trở nên quen thuộc. Trăng chia sẻ niềm vui chiến thắng, cùng người lính vượt qua những khó khăn, mất mát.

Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao. (Phạm Tiến Duật)

Ngày xưa, các tao nhân mặc khách thường “đăng lâu vọng nguyệt”, còn người lính Cụ Hồ đã bao lần ngắm trăng trên đồi cao, vượt núi. Những vần thơ của Nguyễn Duy gợi lên trong lòng người đọc những liên tưởng sâu sắc: “Hồi chiến tranh ở rừng – Vầng trăng thành tri kỉ”.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng gian khổ, về sự gắn bó giữa người lính và thiên nhiên, đất nước. Vần lưng tiếp tục xuất hiện, một ẩn dụ so sánh làm nổi bật sự giản dị, hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của họ:

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ.

Vầng trăng trở thành biểu tượng đẹp đẽ của những năm tháng ấy, là “vầng trăng tri kỷ”, “vầng trăng tình nghĩa” mà ta ngỡ như không bao giờ quên. Một ý thơ chạm đến đáy tâm hồn, đánh thức lương tâm của những ai đã vô tình lãng quên.

Ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.

Nhưng sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Khi hoàn cảnh sống thay đổi, con người cũng dễ thay đổi, trở nên vô tình, bạc bẽo. Từ rừng núi, người lính trở về thành phố, quen với ánh điện, với những tòa nhà cao tầng. Và “vầng trăng tri kỷ”, “vầng trăng tình nghĩa” dần bị lãng quên, trở nên xa lạ. Cách so sánh đầy xót xa khiến người đọc phải suy ngẫm:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.

Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua, như một người xa lạ, không ai nhớ đến, không ai hay biết. Chỉ những ai có lương tâm mới biết sám hối, để hoàn thiện nhân cách, hướng đến những điều tốt đẹp. Giọng thơ thầm thì, tâm sự, như nhà thơ đang trò chuyện với chính mình, khiến chất trữ tình trở nên sâu lắng, chân thành.

Cũng như dòng sông có thác ghềnh, cuộc đời cũng có nhiều biến động. Ghi lại một tình huống “cuộc sống thị thành”, Nguyễn Duy chỉ dùng bốn câu thơ ngắn gọn:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.

Ánh trăng xưa vẫn đến với con người, vẫn “tròn”, vẫn “đẹp”, vẫn thủy chung với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng và suy ngẫm:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng.

Nguyễn Tuân từng coi trăng là “cố nhân”, Xuân Diệu cũng viết: “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”. Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ, một cái nhìn đầy áy náy, xót xa: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” gợi lên sự đối diện giữa mặt trăng và mặt người. Trăng không nói, không trách, nhưng người lính vẫn cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. Đó là sự xúc động, là những giọt nước mắt hối hận, làm cho lòng người thanh thản, trong sáng hơn. Những kỷ niệm đẹp ùa về, tâm hồn hòa mình vào thiên nhiên, vào vầng trăng xưa, vào đồng ruộng, sông biển, quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, điệp từ “là” thể hiện ngòi bút tài hoa của Nguyễn Duy: “…như là đồng, là bể – như là sông, là rừng”. Đoạn thơ hay ở sự chân thành, ở tính biểu cảm, hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ đi vào lòng người, khắc sâu những điều nhà thơ muốn tâm sự.

Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm nghĩa sâu sắc, đưa ta đến với triết lý nhân sinh:

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là sự im lặng tuyệt đối. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung, độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn, không đòi hỏi đền đáp. Đó cũng là phẩm chất cao đẹp của nhân dân, được Nguyễn Duy và nhiều nhà thơ cùng thời phát hiện và cảm nhận sâu sắc.

Ánh trăng là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được sử dụng sáng tạo, tài hoa. Vần điệu phong phú, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nguyễn Duy tâm sự với người đọc những điều sâu kín nhất trong lòng. Chất triết lý thâm trầm được thể hiện qua hình tượng ánh trăng, tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Đừng sống vô tình, hãy thủy chung, nghĩa tình với bạn bè, đồng chí, với nhân dân – đó là điều mà Nguyễn Duy đã gửi gắm một cách thật hay, thật cảm động qua Ánh trăng. Vầng trăng ấy, mãi là ánh trăng của ai? Ánh trăng của quá khứ, của hiện tại và cả tương lai.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *