Từ năm 1858, Việt Nam chìm trong ách đô hộ của thực dân Pháp, từng bước trở thành một Xã Hội Thuộc địa Nửa Phong Kiến, chịu đựng những chính sách cai trị hà khắc và sự bóc lột tàn bạo.
Về chính trị, thực dân Pháp nắm giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thiết lập chế độ cai trị chuyên chế. Chúng sử dụng giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến làm công cụ để đàn áp, tước đoạt quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Về kinh tế, chính sách độc quyền của Pháp kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của Việt Nam. Tài nguyên bị vơ vét, nhân dân bị bóc lột nặng nề, đặc biệt là công nhân và nông dân, đẩy họ vào cảnh bần cùng. Nền kinh tế Việt Nam trở nên què quặt và lệ thuộc hoàn toàn vào Pháp.
Về văn hóa – xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa nô dịch, vong bản, sùng Pháp. Mục đích là kìm hãm nhân dân Việt Nam trong vòng tối tăm, dốt nát và lạc hậu.
Chính sách khai thác thuộc địa triệt để của Pháp đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong xã hội Việt Nam. Hai giai cấp mới xuất hiện: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Xã hội Việt Nam chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, làm nảy sinh hai mâu thuẫn cơ bản ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Hai mâu thuẫn này có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc và đế quốc xâm lược là chủ yếu. Nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống phong kiến tay sai không thể tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc và đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ trở thành yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Việt Nam đã liên tục đứng lên chống lại chúng. Hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đã nổ ra. Tuy nhiên, tất cả đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại là do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Trong bối cảnh khủng hoảng đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm đường cứu nước. Bước ngoặt trong tư tưởng của Người đến khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Người hiểu sâu sắc về con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Từ đây, Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin.
Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức của xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam. Tháng 12-1924, Người về Quảng Châu, Trung Quốc, trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác – Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận, lôi cuốn những người yêu nước đi theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có một tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.
Trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (7-1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9-1929). Điều này phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đây là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, mở ra con đường giải phóng dân tộc khỏi xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn đã chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng, đưa dân tộc đến độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.