Văn Hóa Văn Lang Âu Lạc: Nguồn Gốc và Bản Sắc Dân Tộc Việt

Nền văn hóa khởi thủy của Phú Thọ là sự hòa quyện giữa văn hóa bản địa và dấu ấn của văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên, Gò Mun, đặc biệt là văn hóa Đông Sơn rực rỡ với nền văn minh lúa nước sông Hồng. Phú Thọ được xem là vùng đất cội nguồn, nơi phát tích của dân tộc Việt Nam. Trải qua các giai đoạn lịch sử, cư dân nơi đây đã không ngừng tiếp thu và chọn lọc những giá trị văn hóa để làm phong phú thêm tri thức của mình. Sự đan xen giữa các tộc người trong môi trường sống chung đã tạo nên những nét văn hóa độc đáo, góp phần làm cho văn hóa bản địa Phú Thọ thêm đa dạng.

Tiếp Biến và Giao Lưu Văn Hóa Việt – Mường: Nền Tảng Của Văn Hóa Văn Lang Âu Lạc

Vùng đất Tổ nổi bật với sự giao thoa giữa hai hệ ngôn ngữ văn hóa Việt – Mường và Tày – Thái, trong đó yếu tố văn hóa Việt – Mường đóng vai trò quan trọng hơn. Việt – Mường hay Lạc – Việt là những người Việt cổ, chủ nhân của văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đông Sơn – văn hóa thời đại Hùng Vương và là dòng văn hóa nguyên thủy chủ lưu ở vùng đất này. Nghiên cứu so sánh mối liên hệ văn hóa Việt và Mường với nền văn hóa Hùng Vương, có thể phỏng đoán được quá trình chia tách thành hai nhóm tộc người Việt – Mường. Sự chia tách này diễn ra từ từ trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Ngoài các yếu tố chung về nhân chủng và ngôn ngữ, còn có nhiều tài liệu về dân tộc học, địa danh học, tín ngưỡng, văn hóa dân gian chứng minh cho sự giao thoa và chia tách đó.

Sự tiếp biến và giao lưu văn hóa Việt – Mường ở Phú Thọ thể hiện rõ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tín ngưỡng dân gian. Cả hai dân tộc đều có tục thờ cây, thờ thần núi, tiêu biểu là tục thờ chung thần núi Tản Viên và thờ thần nước. Đồng bào Kinh thờ Hà Bá, Long Vương, Long Hải Đại Vương, còn đồng bào Mường thờ thuồng luồng (ma khú). Tục thờ Sơn Quân thần Hổ cũng phổ biến, với lễ cúng thần bằng thịt chó sống. Tín ngưỡng thờ vật linh, đặc biệt là tín ngưỡng phồn thực gắn với nền nông nghiệp lúa nước, rất phổ biến ở cả hai dân tộc.

Tục lệ thờ quốc Tổ, Tổ họ của người Mường và thờ cúng tổ tiên của người Việt về cơ bản là giống nhau. Cả hai dân tộc cùng thờ Hùng Vương, thờ thánh Tản Viên và đều có tục thờ nhân thần. Nếu người Kinh thờ những người có công với dân, với nước thì người Mường thờ những ông Khai sáng, bà Khai sáng hay bà Chúa Tổ họ. Đặc biệt, người Việt cổ có tục thờ thần Lúa ở nhiều nơi, với nhiều hình thức lễ hội nông nghiệp. Đền thờ các vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh là di sản văn hóa vật thể quan trọng, thể hiện hình thức sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống độc đáo.

Núi Nghĩa Lĩnh, một phần của hệ thống Tam sơn cấm địa, là nơi hội tụ những hình thức tín ngưỡng thờ thần tự nhiên của cư dân Lạc Việt, tạo tiền đề cho sự phát triển thành tín ngưỡng thờ cúng các vua Hùng. Tín ngưỡng nguyên thủy và tín ngưỡng thờ tự các vua Hùng luôn đan xen và tồn tại song song. Tại khu vực đền Thượng, trước khi trùng tu năm 1917, người ta thấy dấu tích bệ thờ một hạt lúa thần rất lớn. Truyền thuyết kể rằng hàng năm, các vua Hùng lên đền Thượng để gọi vía lúa.

Nếu như trước đây ở đền Thượng có thờ một hạt thóc thần làm bằng gỗ và hát gọi vía lúa, ở làng Nam Cường có tục múa mo gọi vía lúa, thì người Mường cũng có các nghi lễ tương tự, chẳng hạn hạ điền gọi là khụng mùa. Ở xã Tất Thắng, đồng bào Mường cũng có thầy mo hát gọi vía lúa khi làm lễ hạ điền.

Trong lễ hội làng Thanh Đình, người ta dùng bó mía cài bông lau (sậy) và bó cỏ de tượng trưng cho cây lúa và cỏ để nuôi trâu, bò. Có thể thấy, văn hóa Việt – Mường luôn có mối giao thoa chặt chẽ. Các ngôi đình, chùa của hai dân tộc cũng không khác nhau nhiều về kiến trúc và nghi lễ thờ cúng.

Văn hóa dân gian Việt – Mường ở Phú Thọ có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt trong kho tàng tục ngữ, ca dao và dân ca. Tục hát nước nghĩa, còn gọi là hát Ghẹo Nam Cường, là một minh chứng rõ rệt về sự giao lưu văn hóa Việt – Mường.

Ngôn ngữ Việt – Mường cũng có nhiều nét gần gũi, từ phát âm đến cấu tạo âm tiết. Vì vậy, từ xưa đến nay, hai dân tộc luôn có sự giao lưu rộng rãi và gắn kết trên nhiều lĩnh vực. Sử thi Đẻ đất đẻ nước, được thể hiện bằng tiếng Việt – Mường, là báu vật chung của người Việt – Mường và cư dân Lạc – Việt. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị và ý nghĩa của sử thi này đối với người Việt – Mường.

Văn hóa Văn Lang – Âu Lạc thống nhất trong tính đa dạng, cả về đời sống vật chất và tinh thần. Cư dân sử dụng công cụ lao động và vũ khí bằng đồng và sắt. Nghề trồng lúa nước là chủ đạo, cùng với các nghề dệt, trồng trọt, chăn nuôi, làm đồ gốm, săn bắn, đánh cá. Các phong tục, tập quán sinh hoạt như cưới hỏi, xăm mình, ăn trầu, lễ hội đua thuyền, tục thờ trời, thờ thần Núi, thần Nước, thờ nõ nường và tín ngưỡng phồn thực khá phát triển.

Nghệ thuật âm nhạc, múa và tạo hình phát triển mạnh mẽ. Nhạc cụ đa dạng về kiểu dáng và cách thức diễn tấu. Bộ gõ có trống đồng, trống da, chuông nhạc, phách, cồng. Bộ hơi có khèn, sáo, tiêu, tiêu biểu là trống đồng. Cư dân Văn Lang đã biết sử dụng phối hợp nhiều nhạc cụ trong lễ hội. Các tượng đồng Đông Sơn thể hiện cảnh người hóa trang hoặc vũ trang nhảy múa.

Cư dân Văn Lang – Âu Lạc có cuộc sống định cư, nhà ở đa dạng. Phong tục mai táng kế tục nền văn hóa tiền Đông Sơn. Họ đã phát hiện ra thuyết vũ trụ quan trời tròn, đất vuông và tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp, cùng với kỹ nghệ chế biến lương thực, thực phẩm (bánh chưng, bánh dày, chè lam, bánh nếp, bánh mật…).

Tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội ở vùng đất này rất đa dạng. Bên cạnh những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thủy, ý thức cộng đồng hình thành cùng với sự hình thành lãnh thổ chung, quốc gia và nhà nước thống nhất đã làm nảy sinh hệ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, thủ lĩnh, ý thức về cội nguồn, tổ tiên, tập quán chung.

Sau hàng ngàn năm lao động sáng tạo, cư dân sinh sống trên vùng đất Tổ đã có những bước tiến mới, đưa xã hội phát triển từ kinh tế nông nghiệp trồng lúa dùng cuốc đến nông nghiệp dùng lưỡi cày đồng. Các bộ lạc sống bên nhau, có chung số phận lịch sử, nhu cầu và lợi ích, đã hình thành một lối sống chung, một nền văn hóa thống nhất. Từ đó, các đơn vị cộng cư của một xã hội nguyên thủy hình thành các đơn vị hành chính của một quốc gia với lãnh thổ chung, cộng đồng các dân tộc chung, một tổ chức chung để quản lý và điều hành xã hội: nhà nước Văn Lang, nhà nước Âu Lạc. Thời ấy, nước ta nằm trong vùng văn hóa Đông Nam Á cổ với tộc Bách Việt phong phú, tạo ra một dòng chảy truyền thống đa dạng.

Văn Hóa Đông Sơn và Văn Minh Lúa Nước Sông Hồng: Đỉnh Cao Của Giao Lưu Văn Hóa Việt – Mường

Thành tựu vĩ đại của văn hóa Đông Sơn, thể hiện trình độ của văn minh lúa nước sông Hồng, chính là trống đồng Đông Sơn. Ở Phú Thọ, đã khai quật được 75 chiếc trống đồng, phân bố chủ yếu ở các vùng Mường. Trống đồng Đông Sơn được xem là bức tranh toàn cảnh về xã hội người Việt cổ.

Trống đồng Đông Sơn ở Phú Thọ chứa đựng những tinh hoa văn hóa, tri thức và quan niệm của người Việt cổ. Nó vừa là đồ thờ tự, vừa là biểu tượng của uy quyền, vừa là nhạc khí, vừa là tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đỉnh cao. Hoa văn trên mặt trống thể hiện vũ trụ quan của người Việt cổ. Hình ảnh khắc vẽ trên các vòng quay chuyển động theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, đúng như thuyết thái dương hệ. Hoa văn trên mặt trống và tang trống thể hiện đời sống lao động, chiến đấu, vật chất và tinh thần của người nông dân trồng lúa nước. Chim Lạc là hình ảnh của Tô Tem giáo. Hình tượng trai gái giã gạo chày tay và tượng cóc ôm nhau, cặp đôi chim – hươu đực, hươu cái cùng với những hình tròn, hình tam giác, hình vuông đan xen nhau là ảnh xạ của tín ngưỡng phồn thực. Hình người cầm vũ khí và thuyền chiến, cảnh xử tội hoặc nghi lễ hiến tế là sự mô phỏng hành động chiến đấu, thể hiện sự quan tâm đến công cuộc dựng nước và giữ nước. Lễ hội trống đồng, lễ hội đua thuyền đánh thức nước, thả diều cầu cạn của cư dân nông nghiệp lúa nước; kiến trúc nhà sàn, trang phục váy, áo, khăn, khố, mũ cắm lông chim của người Đông Sơn đã được phản ánh một cách rõ nét.

Đồng bào Mường ở Phú Thọ có những cách giải mã khác về hoa văn trống đồng. Trong sử thi Đẻ đất đẻ nước, vua Dịt Dàng cho đúc 1.960 chiếc trống đồng theo đúng mẫu chiếc trống bằng đồng thau mà em gái vua nhìn thấy. Người Mường cũng ca ngợi vẻ đẹp của hoa văn trống đồng. Theo họ, trên mặt trống có hình chim ây, chim ứa (chim Lạc), con nhái (cóc), hình tượng mặt trời và cảnh thuyền bè. Người Mường còn cho rằng tiếng trống đồng là thanh âm trầm hùng khiến kẻ thù nghe thấy phải “bạc tóc”.

Các nhà khoa học khẳng định còn rất nhiều “tầng văn hóa” và “mật mã” trên trống đồng chưa được khám phá hết. Trống đồng Đông Sơn là một kho tàng tri thức cổ quý giá, di sản văn hóa, văn minh cội nguồn đất Tổ, cội nguồn dân tộc Việt Nam.

Văn minh sông Hồng có nguồn gốc từ những nền văn hóa đá mới, hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm từ văn hóa tiền Đông Sơn đến văn hóa Đông Sơn. Quá trình phát triển, cùng nhiều thăng trầm lịch sử, sự đúc kết qua thời gian bằng những công trình nghệ thuật đã khẳng định cho giai đoạn lịch sử văn minh lúa nước sông Hồng với nhiều thành tựu: văn hóa Đông Sơn với lưỡi cày đồng, trống đồng, thạp đồng, qua đồng, vũ khí bằng đồng…; sự ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc của tộc Bách Việt với thành ốc Cổ Loa; phát minh hai giống lúa nếp – tẻ và thuần dưỡng súc vật làm sức kéo; phát hiện nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, làm đồ gốm và chế tác thủy tinh; phát kiến việc canh tác lúa nước qua hệ thống thủy lợi.

Văn minh sông Hồng là một nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, một nền văn minh bản địa, có cội nguồn sâu xa trong lịch sử văn hóa của người Việt cổ, có mối quan hệ gần gũi với các nền văn hóa láng giềng. Sự ra đời và phát triển của văn minh sông Hồng là kết quả của sự tác động và dung hợp nhiều nền văn hóa địa phương, hợp thành một nền văn hóa thống nhất trong tính đa dạng, định hình bản sắc văn hóa và lẽ sống của người Việt.

Phú Thọ là vùng đất cổ có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa. Các vua Hùng đã chọn nơi đây làm đất đóng đô của nước Văn Lang cổ đại. Nhân dân Phú Thọ cần cù trong lao động, sáng tạo nhiều loại hình văn nghệ dân gian phong phú. Trong suốt chiều dài lịch sử, các tộc người cùng sinh sống trên mảnh đất này, tạo ra sự tiếp biến và giao lưu văn hóa. Đặc biệt, đối với hai tộc người Việt – Mường, các yếu tố giao thoa văn hóa được thể hiện rõ nét trong nhiều lĩnh vực như tiếng nói, chữ viết, văn nghệ, tín ngưỡng dân gian.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *