Site icon donghochetac

Trong Quá Trình Chuyển Đổi Sang Kinh Tế Thị Trường Các Nhà Máy Ở Trung Quốc Không Được…

Chủ đề này đã được tranh luận rất nhiều, đặc biệt kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO. Trung Quốc đang kỳ vọng vào sự bùng nổ xuất khẩu trong bối cảnh kinh tế trong nước không còn tăng trưởng mạnh mẽ, thậm chí có dấu hiệu suy thoái. Những biến động trên thị trường chứng khoán và tiền tệ đã làm dấy lên nghi ngờ về sự ổn định của nền kinh tế Trung Quốc.

Nguồn Gốc Của Khái Niệm “Nền Kinh Tế Phi Thị Trường”

Khái niệm “nền kinh tế phi thị trường” có từ Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Liên Xô năm 1935. Sau Thế chiến II, vai trò chi phối của Nhà nước trong hoạt động ngoại thương, đặc biệt ở các nước Đông Âu, đã khiến các học giả chú ý. Nhà nước độc quyền trong giao dịch ngoại thương, một đặc điểm của “nền kinh tế phi thị trường”. Đến năm 1973, thuật ngữ “nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung” được sử dụng để chỉ các nước xã hội chủ nghĩa, nơi Nhà nước can thiệp vào thị trường. Đến những năm 1980 và 1990, các thuật ngữ này trở nên phổ biến, cùng với “quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường”.

Trong giai đoạn chuyển đổi sang kinh tế thị trường, Trung Quốc đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng, nhưng vẫn đối mặt với những thách thức trong việc đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường thực thụ.

Trong khuôn khổ WTO, khái niệm này được đề cập trong Điều VI của GATT 1994, thừa nhận rằng việc so sánh giá cả có thể gặp khó khăn khi thương mại bị độc quyền hoặc giá trong nước do Nhà nước định đoạt. Các thành viên WTO nhận thấy rằng các nước có “nền kinh tế phi thị trường” có thể cần được đối xử khác biệt trong các vụ điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp.

Tuy nhiên, GATT và WTO không đưa ra tiêu chí cụ thể để xác định tính chất thị trường hay phi thị trường của một nền kinh tế. Các nước thành viên tự quyết định, miễn là tuân thủ các nguyên tắc của WTO, như không phân biệt đối xử, đảm bảo tính minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và cải cách kinh tế. Các nước xin gia nhập WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng đáp ứng các yêu cầu thị trường. Trung Quốc, sau khi gia nhập WTO, vẫn phải chấp nhận bị coi là có “nền kinh tế phi thị trường” và tiếp tục cam kết cải cách trong vòng 15 năm.

Trong thời gian này, các nước thành viên WTO có quyền không chấp nhận thông tin về giá cả hoặc chi phí sản xuất của Trung Quốc và sử dụng thông tin của nước thay thế để tính toán giá trị thông thường. Trong mỗi vụ điều tra, các nước được lựa chọn để thay thế phải ở cùng mức độ phát triển. Thực tế cho thấy, hầu hết các nước điều tra đều có xu hướng sử dụng nước thay thế có mức phát triển cao hơn, dẫn tới chi phí sản xuất cao, nhằm mục đích nâng biên độ bán phá giá, gây bất lợi cho hàng hóa nhập khẩu.

Sự Ủng Hộ Của Liên Minh Châu Âu (EU) đối với Trung Quốc

Trong nhiều năm qua, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn của EU. Kim ngạch thương mại song phương đã vượt 600 tỷ USD. Vốn đầu tư của Trung Quốc vào EU đã vượt con số đầu tư của khối này vào Trung Quốc.

Quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và EU ngày càng phát triển, tuy nhiên, việc công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc vẫn là một vấn đề gây tranh cãi trong nội bộ EU.

Trong bối cảnh EU hy vọng thực hiện kế hoạch đầu tư quy mô lớn để chấn hưng nền kinh tế, các nhà lãnh đạo EU có xu hướng ủng hộ lời đề nghị của Trung Quốc về việc trao quy chế kinh tế thị trường để đổi lấy nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên, một số thành viên EU khác lại phản đối mạnh mẽ.

Theo quy định pháp luật chống bán phá giá của EU, EC sẽ tiến hành điều tra chống bán phá giá khi nhận được yêu cầu từ các nhà sản xuất trong nước và bằng chứng về việc các nhà sản xuất từ các nước ngoài EU đang bán phá giá sản phẩm nhập khẩu vào EU.

Khi tính toán biên độ phá giá, nếu giá trị thông thường càng lớn thì biên độ phá giá sẽ càng cao, và ngược lại. Khi EU chính thức trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc thì EC không còn có thể sử dụng giá của nước thứ ba nhằm thực hiện các điều chỉnh trong quá trình tính toán biên độ phá giá.

EU đã đưa ra các quy định về việc sử dụng “nước thay thế” trong quá trình xác định giá trị thông thường đối với nước có nền kinh tế phi thị trường, cụ thể là Trung Quốc. Tuy nhiên, việc công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến thị trường và ngành sản xuất trong nước của EU.

Sự Phản Đối Của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ đã cảnh báo EU về việc trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc, cho rằng điều này có thể khiến thị trường Hoa Kỳ và EU tràn ngập hàng hóa giá rẻ với sự cạnh tranh không công bằng.

Quyết định này có thể giúp các công ty Trung Quốc không bị EU áp mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp ở mức cao.

Trung Quốc không thể đưa ra các cam kết cải cách thị trường hóa dài hạn ngay trong Hiệp định Đầu tư song phương Hoa Kỳ – Trung Quốc. Việc mở cửa thị trường Trung Quốc cho các doanh nghiệp của Hoa Kỳ vẫn là một nhiệm vụ khó khăn.

Đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc luôn diễn ra phức tạp, với nhiều vấn đề còn tồn đọng, đặc biệt là về việc mở cửa thị trường và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Xu hướng bảo hộ gia tăng khiến Washington lo ngại rằng Bắc Kinh chỉ tuyên bố cải cách chứ không thực sự muốn có nền kinh tế thị trường.

Công Nhận Hay Không Công Nhận?

GATT và WTO coi vấn đề phương pháp xác định các tiêu chí về tính thị trường thuộc thầm quyền của Chính phủ từng nước.

UNCTAD định nghĩa nền kinh tế thị trường là nền kinh tế dựa chủ yếu vào lực lượng của thị trường để xác định mức độ của sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm mà không có sự can thiệp của Chính phủ. Nền kinh tế phi thị trường là thị trường mà trong đó Chính phủ tìm mọi cách để quản lý các hoạt động kinh tế một cách rộng lớn thông qua cơ chế quản lý tập trung.

EU đưa ra 5 tiêu chí mà các nước phải đạt được nếu muốn được EU trao quy chế kinh tế thị trường, bao gồm mức độ ảnh hưởng của Chính phủ thấp, không có sự bóp méo do Nhà nước gây ra, việc ra đời và thực thi Luật Doanh nghiệp một cách minh bạch và bình đẳng, sự tồn tại và thực thi tập hợp luật nhất quán, hiệu quả và minh bạch để đảm bảo sự tôn trọng quyền sở hữu và sự tồn tại của một lĩnh vực tài chính đích thực mà hoạt động độc lập với Nhà nước.

Việc được các nước, nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ hay EU công nhận quy chế “kinh tế thị trường” là một mục tiêu bắt buộc để nâng cao các chỉ số về xuất khẩu.

Tuy nhiên, Trung Quốc cũng không nên lầm tưởng rằng việc không bị đối xử như nước có “nền kinh tế phi thị trường” là lệnh bài miễn tử đối với hàng hóa xuất khẩu. Các nước chắc chắn sẽ có những điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm hạn chế hàng hóa ồ ạt với giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc.

Giới chức và doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cần theo dõi sát sao diễn biến và xu hướng công nhận quy chế “kinh tế thị trường” của Trung Quốc. Kịch bản diễn ra với Trung Quốc cũng có thể lặp lại với Việt Nam khi trong cam kết gia nhập WTO, các nước thành viên WTO khác cũng có quyền sử dụng biện pháp tính toán biên độ chống bán phá giá và chống trợ cấp cho tới năm 2018. Nếu tận dụng tốt cơ hội, có khả năng Việt Nam cũng sẽ được công nhận cùng với tiến trình công nhận của Trung Quốc.

Exit mobile version