Công nghiệp hóa ở Việt Nam là gì? Tăng trưởng kinh tế nhờ công nghiệp
Công nghiệp hóa ở Việt Nam là gì? Tăng trưởng kinh tế nhờ công nghiệp

Trong Cơ Cấu Sản Lượng Điện Của Nước Ta Hiện Nay Tỉ Trọng Lớn Nhất Thuộc Về?

Việt Nam đã và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là từ cuối thế kỷ XX đến nay. Quá trình này nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp tiên tiến.

Quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam gắn liền với sự phát triển của các cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới, từ cơ khí hóa đến điện tử hóa, tin học hóa và hiện nay là chuyển đổi số. Mỗi cuộc cách mạng công nghiệp mang đến những trình độ công nghệ hiện đại, tạo tiền đề cho sự phát triển của các ngành công nghiệp.

Để đạt được trình độ công nghiệp hóa cao, Việt Nam cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp nền tảng như luyện kim, cơ khí, chế tạo, năng lượng, hóa chất. Đây là những ngành tạo tiền đề cho sự phát triển của các ngành công nghiệp khác.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam cũng là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo lợi thế cạnh tranh, đảm bảo tự chủ kinh tế quốc gia thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động.

Công nghiệp hóa qua các thời kỳ

Thời kỳ trước đổi mới (1960 – 1986)

Trong giai đoạn này, Việt Nam chủ trương xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.

Đặc trưng của thời kỳ này là phát triển công nghiệp dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai, nguồn viện trợ, và vai trò chủ lực của Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế còn lạc hậu, chiến tranh và nhiều nguyên nhân chủ quan khác, nền kinh tế Việt Nam không đạt được những mục tiêu đã đặt ra.

Thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam. Đại hội đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện và xác định ba chương trình kinh tế trọng điểm: lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng; và hàng xuất khẩu.

Đại hội VII (1991) tiếp tục có những nhận thức mới về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Phạm trù “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (CNH, HĐH) được xác định chính thức trong Văn kiện của Đảng.

Đại hội VIII (1996) nhận định nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại vào năm 2020.

Đại hội IX (2001) xác định nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển mới là “đẩy mạnh CNH, HĐH” để tạo nền tảng cho nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Đại hội X (2006) tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa, đó là con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.

Đại hội XI (2010) tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001-2010 và đưa ra nhận định nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng.

Đại hội XII (2016) chỉ rõ việc đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện, dẫn đến một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội chưa đạt được theo kế hoạch.

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 23-NQ/TW (2018) về chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với mục tiêu tổng quát là đến năm 2030, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Trong cơ cấu sản lượng điện của nước ta hiện nay, tỉ trọng lớn nhất thuộc về nhiệt điện than. Tuy nhiên, Việt Nam đang có xu hướng chuyển dịch sang các nguồn năng lượng tái tạo như thủy điện, điện gió, điện mặt trời để đảm bảo an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *