Thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích – con chim bồ câu
Chim bồ câu là một loài chim hiền lành và xinh đẹp, được nhiều người yêu thích và nuôi dưỡng. Chúng thích nghi tốt với cả môi trường thành thị lẫn nông thôn.
Tổ tiên của chim bồ câu nhà là loài bồ câu núi, vẫn còn tồn tại hoang dã ở nhiều vùng núi thuộc châu Âu, châu Á và Bắc Phi. Bồ câu được con người thuần hóa lần đầu tiên tại Ai Cập, cách đây khoảng 5000 năm. Đến nay, trên thế giới có khoảng 150 giống bồ câu khác nhau. Tại Việt Nam, chim bồ câu có kích thước nhỏ, trọng lượng khoảng 5-6 lạng, với đa dạng màu lông như trắng, xám, nâu, xanh đen, đốm… Các giống bồ câu từ Pháp, Mỹ, Hà Lan có thể nặng gần 1kg.
Thân hình chim bồ câu tương tự chim gáy nhưng lớn hơn. Lông vũ bao phủ toàn thân. Mình chim có hình thoi, đuôi ngắn xòe rộng khi bay. Cổ dài khoảng 6-7 cm, mỏ nhỏ và cong. Đôi mắt màu nâu tròn và sáng. Đầu chim linh hoạt, giúp chim dễ dàng mổ thức ăn, rỉa lông.
Đôi chân màu hồng sậm, thanh mảnh có vảy bao bọc với 4 ngón, 3 ngón trước và 1 ngón sau đều có móng sắc, giúp chim di chuyển nhẹ nhàng. Bồ câu dễ nuôi, chúng ăn các loại hạt như thóc, lúa mì, ngô, đỗ… và ít khi mắc bệnh.
Dù được nuôi trong điều kiện tốt, chim bồ câu nhà vẫn giữ đặc điểm của bồ câu núi. Chúng thích sống theo đôi, theo đàn, trong chuồng khô ráo, sạch sẽ. Chim trống thường có động tác gù mái, chim mái đẻ mỗi tháng một lứa hai trứng.
Bồ câu bay giỏi, có thể đạt vận tốc 100 km/h và bay hàng trăm km không nghỉ, như bồ câu đưa thư. Tuy nhiên, khi di chuyển trên mặt đất, chúng chậm chạp và vụng về.
Hiện nay, người ta nuôi bồ câu để lấy thịt và làm cảnh. Thịt bồ câu là món ăn cao cấp, ngon và bổ dưỡng. Các món như miến xào thịt chim, chim bồ câu rô ti, chim bồ câu hầm hạt sen, thuốc bắc có tác dụng bồi bổ sức khỏe.
Chim bồ câu gắn bó với đời sống tinh thần của con người từ lâu. Tiếng chim gù vào mỗi sớm mai, hình ảnh chim bay lượn trên bầu trời xanh mang đến cảm giác thư thái, dễ chịu.
Bố em thích nuôi chim bồ câu, bố đã xây cả dãy chuồng cho chim. Chuồng sơn màu xanh lá cây, cửa tròn viền trắng. Trước chuồng có tấm ván rộng để chim đậu và tắm nắng. Đó là tổ ấm của những cặp bồ câu.
Cặp chim non mới nở được gần một tháng. Chúng rất ngộ nghĩnh. Mỏ màu hồng nhạt to quá cỡ luôn há rộng ra. Tiếng kêu chim chíp yếu ớt. Đôi chân nhỏ xíu đỡ thân trụi lủi, thưa thớt lông măng. Đôi mắt tròn xoe, ngơ ngác nhìn ngó xung quanh.
Chim mẹ nghiêng cánh rộng, nhẹ nhàng đáp xuống bên con. Chim non há mỏ đòi ăn. Chim mẹ mớm mồi từng chút vào mỏ đói. Chim bố đứng ở đầu chuồng canh chừng, ngắm nhìn chim mẹ, chim con rồi cất tiếng gù gù, vẻ hài lòng.
Cảnh tượng này gợi lên trong em niềm xúc động về tình mẫu tử thiêng liêng. Tiếng chim trong buổi sáng giữa vườn cây trái sum suê gợi lên cuộc sống êm ả, thanh bình.
Chim bồ câu rất có ích cho con người. Hình ảnh chim bồ câu trắng tượng trưng cho hòa bình và thủy chung của nhân loại.
Thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích – con trâu
Nhắc đến làng quê Việt Nam, ai cũng hình dung về không gian thoáng đãng, thanh bình với cánh đồng xanh ngát, dòng sông hiền hòa, mái đình cổ kính. Ở bất cứ đâu ta cũng bắt gặp hình ảnh con trâu cần mẫn cày ruộng, thong thả nhai rơm. Hình ảnh đó đã trở nên quen thuộc và gần gũi với bao thế hệ người Việt.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng, thuộc nhóm trâu đầm lầy nhưng trải qua quá trình thuần hóa mà trở thành như hiện tại. Trâu được phân bố khắp đất nước và đã trở thành người bạn đồng hành cùng dân tộc. Nó có thân hình thấp, ngắn và vạm vỡ, khỏe mạnh. Trâu thường có màu đen với vạch loang dưới cổ họng và phía trên ngực.
Trâu có lớp da dày, đen, thô ráp với lớp lông cứng và khá mỏng được phủ lên toàn thân. Đầu của con trâu to, ngắn với đôi sừng màu đen, nhọn và cong về phía sau, phát triển hơn so với bò. Ngày xưa, người dân thường dựa vào cặp sừng trâu để phân biệt trâu lành hay trâu dữ: sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm cùng cặp mắt to dữ thì phải coi chừng có biện pháp thuần phục. Thân hình trâu vạm vỡ, thấp ngắn, bụng to, mông dốc.
Ngoại hình như vậy cùng với độ khỏe của nó rất phù hợp với việc kéo cày. Được ba tuổi là trâu có thể đẻ lứa đầu. Trâu đẻ cũng có mùa vụ, mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa. Một con trâu cái thường sinh từ năm đến sáu con nghé và nghé sơ sinh thì nặng khoảng từ 20 đến 25 kg. Trâu được phân theo giống đực và giống cái. Chúng thì khác nhau cơ bản về sức khỏe và ngoại hình.
Từ thuở xa xưa ông cha ta đã biết sử dụng trâu như một công cụ lao động hữu ích. Trâu được sử dụng để kéo cày, để tiết kiệm thời gian và sức lao động cho người nông dân. Mỗi ngày trâu đực thường cày được khoảng từ ba đến bốn sào còn trâu cái là từ hai đến ba sào.
Bên cạnh đó trâu còn được dùng để kéo xe với trọng lượng từ 400kg đến một tấn tùy thuộc vào loại xe và loại đường. Mùa màng có bội thu và đúng thời vụ hay không một phần là nhờ vào việc cày bừa của trâu. Sức trâu rất bền, làm việc được trong một thời gian khá lâu mà không phải nghỉ ngơi nhiều.
Trâu còn có khả năng cung cấp thịt. Thịt trâu có chứa hàm lượng đạm cao mà chất béo lại thấp, ăn rất thơm và ngậy. Với giá thành dao động từ 200.000 vnđ đến 300.000 vnđ thì trâu đã đem lại nguồn lợi kinh tế khá ổn định cho người nông dân, giúp họ cải thiện đời sống.
Người ta cũng thường thu được lợi ích kinh tế từ sữa trâu. Mỗi chu kì vắt thì thường thu được từ 400 đến 500kg sữa. Da trâu rất dày nên thường được dùng làm trống. Còn sừng trâu được mài giũa trở thành đồ mỹ nghệ, trang trí cho nhà cửa rất đẹp và sang trọng.
Không biết tự bao giờ con trâu đã trở thành biểu tượng của làng cảnh Việt Nam và làm bạn với tất cả mọi người. Từ những đứa bé thì tuổi thơ của chúng cũng gắn bó với trâu, trở thành người bạn thân thiết. Mỗi buổi chiều khi gió thổi mát rượi, khi mặt trời đã lặn dần về phía lũy tre làng cũng là lúc bọn trẻ đồng quê dắt trâu ra đồng cho chúng ăn cỏ.
Trên lưng trâu, chúng cùng cất lên tiếng hát trong trẻo, ngây thơ; cùng bắt đầu với những nét vẽ đầu đời khi coi lưng trâu là bảng. Không những vậy, chúng còn hò reo vui vẻ thả diều trên lưng trâu. Con diều bay cao cao mãi trên bầu trời đã mang theo bao nguyện ước ngày xanh.
Con trâu còn là biểu tượng đẹp cho phẩm chất và tính cách của người Việt Nam. Là một trong 12 con giáp, con trâu là hình ảnh của những con người chịu thương, chịu khó, cần cù và chăm chỉ làm việc. Không chỉ vậy, đó còn là những người hiền lành có nhẫn nại.
Trâu đã trở thành một phần đời sống tinh thần của người Việt. Con trâu gắn liền với những lễ hội nổi tiếng như lễ hội chọi trâu đầy kịch tính ở Đồ Sơn – Hải Phòng hay lễ hội đâm trâu của một số dân tộc ở Tây Nguyên.
Con trâu Việt Nam cũng là đề tài, là nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều tác giả từ bài ca dao “ Trâu ơi ta bảo trâu này” hay trong bài thơ “Quê hương” của Giang Nam.
Những năm gần đây con trâu còn vượt khỏi lũy tre xanh, trở thành biểu tượng của SEAGAMES 22 được tổ chức tại Việt Nam. Ngày nay tuy có nhiều phương tiện lao động hiện đại nhưng con trâu vẫn luôn có một vị trí quan trọng trong đời sống, làm bạn cùng dân tộc ta đến muôn đời.
Thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích – con gà
Gà là một loài vật nuôi gắn bó với đời sống của người Việt Nam, đem lại nhiều lợi ích cho con người, không chỉ về vật chất mà cả về mặt tinh thần. Một loài vật thân thuộc hiện hữu trong bức tranh làng quê.
Gà là loài gia cầm được nuôi rất phổ biến. Gà có cánh tròn, ngắn, toàn thân phủ lớp lông mao bóng như bôi mỡ, cái đầu bé và cổ dài từ 10cm đến 12 cm. Gà có đôi mắt không tinh, thường không nhìn thấy gì vào buổi đêm. Để thích nghi với việc đào xới tìm mồi, gà có đôi chân sần sùi, móng cùn và cứng phủ những vẩy sừng màu vàng nhạt có cựa ở chân và một cái mỏ vàng khỏe khoắn, để mổ con mồi.
Theo các nghiên cứu, tổ tiên của chúng là gà rừng, theo sự thuần hóa của con người, dần dần chúng mất khả năng bay lượn, đa số chúng sử dụng chân để di chuyển trên mặt đất, đi lại và tìm mồi. Gà cũng có con trống, con mái. Gà trống có cái mào màu đỏ tươi oai vệ, bộ lông óng mượt, chân có cựa sắc nhọn thu hút sự chú ý của con cái.
Những con gà trống còn được coi là đồng hồ báo thức sống, mỗi lần chúng cất tiếng gáy lại là một lần chuyển canh giờ, sự báo hiệu của ngày mới sắp bắt đầu. Còn gà mái, không có cái mào đỏ tươi rực rỡ như gà trống, bộ lông cũng không sặc sỡ, thường chỉ một màu. Vai trò chính của những con gà mái là sinh sản và nuôi con. Chúng thực hiện thiên chức làm mẹ của mình, thường ấp trứng và những con gà con được sinh ra.
Gà mái đẻ một lứa từ 10 đến 20 trứng. Đa số những con gà mái đẻ thường kêu cục tác cục tác, ta lại nhớ đến câu “con gà cục tác lá chanh”. Gà con nở, đón chào một cuộc sống mới bên ngoài vỏ trứng, chúng như những cục bông màu vàng nhỏ xinh vây quanh gà mẹ, sung túc đủ đầy. Thức ăn của gà thường là thóc hay cám, nhưng chúng vẫn thường đào xới đất để tìm những hạt sỏi, cát hay những con giun đất. Đào xới đất vừa giúp chúng tìm kiếm thức ăn vừa làm tăng độ khỏe của bộ móng và giúp gà mẹ dạy gà con khi mới nở.
Gà là một loài động vật có ích, đem lại nhiều lợi ích cho con người, cả về kinh tế lẫn sức khỏe. Trứng gà là nguồn thực phẩm lớn, cung cấp protein cho con người. Từ quả trứng gà có thế chế biến theo nhiều cách khác nhau, như chiên trứng, luộc trứng,… Mỗi ngày chúng ta có thể ăn 1-2 quả trứng để đảm bảo hàm lượng protein và phòng tránh một số bệnh. Ngoài ra, thực tế trứng còn góp mặt trong việc làm bánh và được dùng trong chế độ ăn giảm cân. Thịt gà cũng là một trong những thực phẩm hằng ngày, cung cấp protein cho cơ thể. Ngoài cung cấp nguồn thực phẩm trong đời sống hằng ngày, thì gà đáp ứng một số công việc trong đời sống hằng ngày như sử dụng lông gà làm chổi, làm quạt, sử dụng phân gà làm phân bón cho cây cối…
Không chỉ chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp của nước ta, mà con gà còn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần. Gà đã đi vào tín ngưỡng của người dân Việt Nam. Tên khác của chúng là “Dậu”. Có năm “Đinh Dậu” cũng là tên gọi phổ biến để gọi năm đối với con người Việt Nam.
Gà còn đi vào những bức tranh Đông Hồ đậm tính truyền thống dân tộc qua nét vẽ của những người nghệ sĩ tài ba. Gà còn là món ăn không thể thiếu, luôn được đặt ở giữa mâm trong những ngày giỗ, cúng bái tổ tiên hay mâm cỗ ngày Tết cổ truyền. Gà còn đi vào lời ru, những lời ca dao từ xa xưa, những câu răn dạy con người ta về cách sống tốt đẹp: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.
Gà là loài vật nuôi quan trọng trong đời sống, gắn bó thân thiết với con người và là một trong những nét truyền thống đẹp của Việt Nam biểu tượng cho những ước mơ cơm áo đủ đầy.
Thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích – con chó
Chó – loài động vật gần gũi với hầu hết các gia đình hiện nay. Đó là loài vật quen thuộc, trung thành, gần gũi mà ai cũng có thể chăm sóc, yêu mến nó, thậm chí chó đã thành thú cưng của rất nhiều người yêu động vật.
Chó là loài động vật đầu tiên được loài người thuần hóa làm vật nuôi trong nhà cách đây khoảng mười lăm nghìn năm vào cuối kỉ băng hà. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói, là một loài động vật có vú. Loài chó mà chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ màu xám. Trong tiếng Việt, chó được nhiều người gọi là con cầy. Có thể thấy một số giống chó như là Béc- giê, Collie, Larbador, Chó Bắc Kinh,…
Chó là loài động vật bốn chân, ăn tạp. Kích thước trung bình của chó là dài 40-160 cm. Chó có tuổi thọ trung bình từ mười sáu đến mười tám năm. Chó có bốn chi: hai chân trước và hai chân sau, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc nhưng khi đi thì cụp vào. Ngực nở, bụng thon. Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Sau khi sinh con non, con mẹ cho con non bú sữa vài tháng và lúc này con mẹ trở nên khá hung dữ. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc.
Mắt chó có đến 3 mí: một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa chuyển động, sau đó ánh sáng và cuối cùng là hình dáng. Vì vậy, mắt chó rất kém, chỉ phân biệt được màu lam và màu vàng. Bù lại, chúng có thể quan sát khá rõ trong đêm tối.
Tai của chúng cực thính, chúng có thể nhận được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Và, khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi.
Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay lấy đuôi che cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Chó có đến 2 lớp lông: lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.
Chó có bộ não rất phát triển, xương quai hàm cứng. Đặc biệt, tai và mắt chó rất thính và tinh vào ban đêm. Chó vẫy đuôi để biểu hiện tình cảm. Chó là loài động vật có bộ phận tiêu hóa rất tốt. Chó có đặc tính là chạy rất nhanh bằng bốn chân, tốc độ lao về phía trước khoảng từ bảy mươi đến tám mươi kilomet một giờ. Hơn nữa, chó cũng có khả năng đánh hơi rất tài. Hiện nay chó hoang dã vẫn còn tồn tại, nhưng chó được thuần dưỡng như chó nhà, chó cảnh thì phổ biến hơn.
Chúng ta phải thừa nhận một cách chắc chắn rằng chó là một con vật “đa năng”: chó giữ nhà, chó cảnh, chó cứu hộ, chó thể thao, chó nghiệp vụ… Loại chó bắt được tội phạm được gọi là chó nghiệp vụ, trinh thám và thường rất to, cao, tai vểnh, hoạt động nhanh nhẹn, linh hoạt và thông minh.
Chúng được nuôi rất công phu. Một số loại chó khác như chó săn thường rất khôn. Chó cứu hộ được dùng trong việc cứu hộ ở các bến cảng, sân bay, nơi xảy ra sự cố. Ở một số nước, người ta còn sử dụng chó để chăn cừu, kéo xe, dẫn đường cho người khiếm thị,… Khi là vật nuôi trong nhà, những chú chó chẳng khác nào những người vệ sĩ trung thành. Không thể kể hết những công việc mà chó có thể giúp đỡ hoặc thay thế con người.
Ngoài ra thịt chó cũng là một loại thức ăn rất giàu chất đạm. Nhưng không hẳn là chỉ có ích, nó còn rất dễ bị bệnh, đó là bệnh “dại”. Thường là thời gian đầu chó rất bình thường, ít người phát hiện ra để đề phòng. Khi bị chó dại cắn, lúc bấy giờ mới thấy rõ việc nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho chó thường xuyên theo định kì để tránh bị mắc bệnh.
Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người. Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Vì thế, chúng ta cần yêu thương và chăm sóc tốt cho chúng.
Thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích – con mèo
Có rất nhiều loài vật đã được con người thuần hoá, nuôi dưỡng và trở thành “thú cưng” trong mỗi gia đình. Nhưng trong số đó, có thể nói mèo là loài vật được yêu chiều, nâng niu nhất.
Mèo nhà là một phần loài trong họ mèo (trong họ mèo còn có báo, linh miêu..). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm.
Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro… Có những chú mèo mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,…
Mèo con từ 1 tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng… Chúng giao tiếp bằng cách kêu “meo”, “mi-ao”, “gừ-gừ”, rít , gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau.
Thông thường mèo nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23 kg vì được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg), ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ 14 năm tới 20 năm. Chú mèo già nhất từng biết đến trên thế giới đã sống 36 năm.
Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ. Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm.
Mèo là những “vận động viên điền kinh” tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt.
Mèo có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón.
Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp. Khả năng này được gọi là “phản xạ thăng bằng.” Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân.
Những bước đi của mèo rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại, vì vậy nó rất thuận lợi trong việc săn mồi cũng như đi lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt gồ ghề. Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi và chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo.
Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng và vểnh tai theo hướng khác. Khi giận dữ hay sợ hãi, mèo thường chĩa tai về phía sau đồng thời phát ra các âm thanh gầm gừ hay tiếng rít. Khi chơi đùa, tai mèo có thể chĩa ra phía trước. Mắt mèo cũng là một bộ phận khá đặc biệt.
Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh… tạo nên những vẻ đẹp riêng của mèo và thu hút nhiều ánh nhìn khi về đêm. Về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó và có thể xác định chính xác vị trí một vật trong vòng 7.5cm khi nguồn phát âm cách khoảng 1 mét.
Khứu giác của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được.
Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá… Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng.
Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá.
Mèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả.
Trải qua một thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một “người bảo vệ”, một “dũng sĩ diệt chuột” mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ thương. Có lẽ bởi vậy, tinh cảm giữa con người và loài mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn.
Thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích – con lợn
Trong cuộc sống của con người sẽ trôi đi tẻ nhạt và buồn chán biết bao nếu như không có những con vật để bầu bạn. Nếu như những chú mèo nhỏ xinh là con vật cưng của nhiều người, chú chó là người canh dữ dũng cảm thì chú lợn hiền lành, đáng yêu luôn đem lại cho người ta những giây phút thư giãn và yêu đời.
Chắc hẳn là ai cũng nhận biết được loài vật này, lợn đã trở thành một con vật nuôi quen thuộc với chúng ta. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, đầu tiên do con người săn bắn và hái lượm, họ bắt được lợn rừng và đem về nuôi. Dần dần con người ý thức và chọn lựa những con lợn tốt để nuôi còn những con kém chất lượng có thể giết thịt nhằm cung cấp thực phẩm. Tổ tiên của lợn chính là lợn rừng, Voncopvialov cho rằng lợn nhà được tạo ra từ các giống lợn rừng châu Âu và châu Á.
Các giống lợn được phân thành các giống lợn chính và các giống lợn phụ. Ở rừng châu Á và châu Âu có tới bốn giống lợn chính và 25 giống lợn phụ. Lợn ngày nay được tạo thành ba giống lợn phụ của châu Á là Sus orientalis, Sus vitatus, Sus crytatus và một giống lợn châu Âu Sus crofa. Lợn rừng và lợn hoang dã cũng là những giống lợn khác nhau ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Lợn nước hoặc lợn đầm lầy là giống lợn thích nghi như các động vật bán thủy sinh.
Lợn thuộc vào thứ có guốc. Kích cỡ và hình dạng của lợn thường thay đổi khác nhau tùy theo từng giống. Đầu và toàn thân lợn có thể dài đến 190500mm, đuôi dài từ 35- 450mm. Lợn trưởng thành cơ thể nặng tới 350kg. Mắt của chúng nhỏ và dẹt, nằm cao trên hộp sọ. Tai của lợn khá dài và rủ xuống với một núm lông nằm gần đầu mút.
Hộp sọ của lợn thường dày và có một điểm chấm khá bằng phẳng. Mũi của lợn to bằng bàn tay nắm lại và khá linh động. Cả bốn chân của lợn đều có móng nhưng nó chỉ thể hiện chức năng trong vận động ở các ngón giữa. Những chú lợn khoác lên mình bộ áo màu trắng phớt hồng, điểm xuyết một vài chiếc lông trắng.
Lợn được nuôi để lấy thịt có chất lượng thịt thơm ngon, tỷ lệ thịt xẻ và tỉ lệ mỡ cao trong thân thịt. Lợn có thể sản xuất một lượng mỡ đáng kể. Mỡ là một nguồn dự trữ năng lượng lớn, giúp cho thịt có mùi và vị ngon hơn. Ngoài ra thịt lợn vốn là loại thực phẩm có giá cao, ổn định trên thị trường.
Lợn có rất nhiều đóng góp giá trị cho đời sống của con người. Hầu hết thân thịt lợn đều sử dụng để chế biến hoặc làm thức ăn cho con người. Da của lợn có thể làm thức ăn hoặc cung cấp cho ngành thuộc da, lông có thể được dùng để làm bàn chải, bút vẽ….
Sự phát triển của công nghệ chế biến thịt xông khói, lên men đã tạo nên một số lượng sản phẩm rất đa dạng từ thịt lợn, các công nghệ này đã giúp cho quá trình bảo quản, nâng cao tính đa dạng, hương vị và nâng cao phẩm chất khẩu phần ăn cho con người.
Sau khi được thuần hóa, lợn sớm trở thành một món hàng có giá trị cho việc kinh doanh và buôn bán. Trước khi tiền tệ xuất hiện, con người đã tiến hành trao đổi lợn để lấy các loại hàng hóa khác. Quá trình thương mại diễn ra cũng có nghĩa là con lợn bắt đầu có giá trị kinh tế. Việc bán lợn và các sản phẩm lợn cung cấp một nguồn thu nhập cho hàng triệu gia đình nông dân trên thế giới.
Các sản phẩm này đã ảnh hưởng rộng đến các hoạt động kinh doanh khác như: thương mại, vận chuyển, thị trường, giết mổ, chế biến thức ăn và nhiều lĩnh vực khác nữa. Ngoài ra nó còn có tác dụng kích cầu đối với các ngành chế biến thức ăn, sản xuất con giống, tinh dịch, thuốc thú y và các thiết bị khác. Khi lợn có giá trị kinh tế, chúng là một hình thức tiết kiệm cho người dân.
Lợn đã được xem là một loài vật nuôi có tầm quan trọng không chỉ vì giá trị thức ăn mà còn có các giá trị văn hóa độc đáo. Điều này được thể hiện trong các bài hát, thơ ca, tranh ảnh hội họa, sách. Lợn được xem là có các đặc tính của con người. Nó được thể hiện là các đấng anh hùng hay là kẻ hung dữ trong các chuyện ngụ ngôn.
Những con lợn đem lại nguồn lợi không hề nhỏ cho người dân và mang những giá trị tinh thần to lớn. Vì vậy, ta cần chăm sóc và yêu quý loài vật này.
Thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích – con vịt
Cũng như trâu, bò, chó, mèo, gà, lợn thì vịt cũng là một loài vật nuôi vô cùng quen thuộc đối với con người, đặc biệt là đối với người nông dân. Ở Việt Nam, chăn nuôi vịt đã trở thành một ngành nghề riêng biệt đang rất phát triển, đem lại lợi ích kinh tế cao, thịt vịt là loại thức ăn cung cấp nhiều chất dinh dưỡng và được rất nhiều người ưa thích. Tuy nhiên không phải ai cũng có những hiểu biết căn bản về vịt.
Vịt nhà có nguồn gốc từ loài Vịt cổ xanh (tổ tiên của tất cả các giống vịt nhà), chúng xuất hiện các vùng ao đầm, phá của Châu Á, và xuất hiện ở các nước Đông Nam Á cách đây vài ngàn năm, được con người nuôi thả để cung cấp thức ăn và lông.
Cũng giống như những họ hàng của chúng là thiên nga, ngỗng, ngan thì vịt được xếp vào nhóm thủy cầm (loài gia cầm sống, kiếm ăn dưới nước), phân biệt với các loài gia cầm khác là chim và gà. Tên khoa học của vịt là Anas platyrhynchos domesticus thuộc họ Vịt (Anatidae), bộ Ngỗng (Anseriformes), ở Việt Nam, phổ biến nhất là giống vịt cỏ, hay còn gọi là vịt chạy đồng.
Vịt cỏ có nhiều màu lông khác nhau, có con là trắng thuần, có con nâu pha xám, cũng có con màu đen nhạt, một số con khác còn