Thuyền Tôi Trôi Trên Sông Đà: Cảm Nhận Về Một Miền Ký Ức

“Thuyền tôi trôi trên sông Đà…” Câu văn mở đầu một khúc tùy bút tuyệt đẹp của Nguyễn Tuân, đưa người đọc lạc vào một không gian vừa thực, vừa mộng ảo, nơi sông Đà hiện lên không chỉ là một dòng chảy địa lý, mà còn là một dòng chảy văn hóa, lịch sử, và cả những rung động sâu thẳm trong tâm hồn con người.

Nguyễn Tuân, với ngòi bút tài hoa và uyên bác, đã khắc họa sông Đà không chỉ qua những ghềnh thác hiểm trở, mà còn qua những khúc sông êm đềm, thơ mộng. Đoạn văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” là một minh chứng rõ nét cho sự tinh tế trong cách quan sát và diễn tả của ông.

Câu văn toàn thanh bằng “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…” như một lời ru, đưa người đọc vào một giấc mộng phiêu du. Không gian “lặng tờ” được nhấn đi nhấn lại, gợi lên cảm giác yên bình, tĩnh lặng, như thể thời gian ngừng trôi. Cảnh ven sông “lặng tờ” gợi nhớ đến những trang sử cổ kính, những “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên”.

Màu xanh là gam màu chủ đạo của cảnh vật ven sông. Màu xanh của nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, màu xanh của đồi gianh nối tiếp đồi gianh. Sự xuất hiện của đàn hươu trên nền xanh ấy tạo nên một bức tranh vừa hoang dại, vừa thơ mộng, khác hẳn với “chú nai vàng ngơ ngác” quen thuộc.

“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử; Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nguyễn Tuân không chỉ miêu tả cảnh vật bằng trực giác, mà còn bằng cả trí tưởng tượng phong phú, tạo nên những liên tưởng độc đáo và gợi cảm. Ông đã “thả hồn mình vào linh vật”, yêu mến, nâng niu từng ngọn cỏ, từng chú hươu.

Trong không gian “hoang dã” ấy, Nguyễn Tuân khao khát một âm vang của thời đại, một giấc mơ về tương lai. Tiếng còi tàu “thèm được giật mình” không chỉ là âm thanh của sự hiện đại, mà còn là biểu tượng của sự đổi mới, của những khát vọng vươn lên.

Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ là một khoảnh khắc giao cảm thần tiên. Trên nền xanh của cỏ sương, hươu chăm chăm nhìn người, như dò hỏi. Lòng người và tạo vật cùng rung động, tạo nên một không gian tĩnh lặng, thiêng liêng, nhiệm màu.

Từ cõi mộng trở về thực tại, tiếng động nhỏ của con cá dầm xanh như làm cho ông khách sông Đà chợt tỉnh giấc. Mượn cái động để tả cái tĩnh, Nguyễn Tuân đã mở ra một không gian nghệ thuật mới. Cá quẫy, đàn hươu vụt biến, trước mắt du khách chỉ còn là một màu xanh của nước, màu xanh của cỏ gianh đồi núi.

“Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” là một câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so sánh “đàn cá bụng trắng như bạc rơi thoi” vừa gợi tả sắc trắng, vừa chỉ rõ dáng hình thon dài của đàn cá dầm xanh.

Khi thuyền trôi về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn. Nguyễn Tuân cảm thấy dòng sông “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Dòng sông “lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”, và “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.

Yêu sông Đà, yêu cảnh sắc sông Đà, yêu Tây Bắc, với Nguyễn Tuân, chính là tình yêu sông núi, yêu con người Việt Nam cần cù, nhân hậu, dũng cảm, tài ba. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…” không chỉ là một câu văn tả cảnh, mà còn là một câu văn chứa đựng biết bao tình cảm, biết bao tâm tư của nhà văn.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *