Thời Cơ Ngàn Năm Có Một Để Nhân Dân Việt Nam Tổng Khởi Nghĩa Giành Chính Quyền Năm 1945 Kết Thúc Khi Nào?

Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của năm 1945, thời cơ ngàn năm có một đã xuất hiện, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam vùng lên tổng khởi nghĩa, giành lại độc lập và tự do cho dân tộc. Sự kiện Nhật đảo chính Pháp đêm 9/3/1945 đã tạo ra một khoảng trống quyền lực, mở ra cơ hội chưa từng có để lật đổ ách thống trị của thực dân và phát xít.

Từ ngày 9 đến 12/3/1945, Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh) đã nhận định sâu sắc về tình hình mới, đánh giá rằng cuộc đảo chính của Nhật đã đẩy nhanh quá trình chín muồi của cuộc khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị đã ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945, định hướng cho phong trào cách mạng trong giai đoạn mới.

Tuy nhiên, sau khi độc chiếm Đông Dương, Nhật Bản vẫn duy trì bộ máy thống trị cũ, chỉ thay đổi bằng cách dựng lên chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Mặc dù vậy, tình hình thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Việt Nam.

Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản, và chỉ trong vòng 10 ngày, quân đội Xô Viết đã đánh tan đạo quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật. Ngày 14/8/1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đây chính là thời điểm then chốt, tạo ra thời cơ “ngàn năm có một” để nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã khẳng định quyết tâm “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do, độc lập!”. Thời cơ khách quan này chỉ tồn tại trong khoảng 20 ngày, từ ngày 15/8 (khi Nhật đầu hàng) đến ngày 5/9 (khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật). Nếu khởi nghĩa trước ngày 15/8, quân Nhật còn mạnh; nếu sau ngày 5/9, sẽ có nhiều kẻ thù trên đất nước.

Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ lịch sử này, lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong thời gian ngắn ngủi đó. Ở Sài Gòn, Đảng Cộng sản đã trở thành lực lượng có tổ chức mạnh nhất, đủ sức lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.

Ngày 14 và 15/8/1945, Toàn quốc Hội nghị của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Tân Trào đã đề ra những nguyên tắc và chính sách quan trọng cho cuộc khởi nghĩa. Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa.

Tiếp theo đó, Đại hội Quốc dân tại Tân Trào ngày 16/8/1945 đã thông qua Lệnh khởi nghĩa, 10 chính sách lớn của Việt Minh, quy định quốc kỳ, quốc thiều và cử ra Chính phủ Lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Mặc dù mệnh lệnh tổng khởi nghĩa không đến kịp nhiều tỉnh, nhưng nhờ tinh thần chủ động và sáng tạo, các Đảng bộ địa phương đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành thắng lợi. Ngày 19/8, Hà Nội khởi nghĩa thành công; ngày 23/8, Huế về tay nhân dân.

Tại Nam Bộ, ngày 15/8, Xứ ủy Tiền phong chỉ định Ủy ban Khởi nghĩa. Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, Thanh niên Tiền phong tuyên bố đứng vào hàng ngũ Việt Minh. Đêm 24/8, Sài Gòn khởi nghĩa theo kế hoạch, và sáng 25/8, cuộc biểu tình vũ trang của quần chúng đã giành chính quyền thắng lợi.

Ngày 25 tháng 8 năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trọn vẹn thành công ở Sài Gòn và lan ra các tỉnh Nam Bộ mà không đổ máu. Đây là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự đồng lòng của nhân dân.

Đồng chí Lê Duẩn đã khẳng định tầm quan trọng của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn, đánh giá đó là một trong những đòn quyết định của Cách mạng Tháng Tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là niềm tự hào của giai cấp lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Cách mạng Tháng Tám đã để lại những bài học vô cùng quý báu về vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, và khả năng nắm bắt thời cơ để giành và giữ chính quyền.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *