Nguyễn Trãi, một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất, đã đưa chữ Nôm lên một tầm cao mới, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của tiếng Việt. Ông là tên tuổi sáng giá nhất của dòng thơ Nôm trung đại Việt Nam.
Thơ Nôm Của Nguyễn Trãi được đánh giá là súc tích, tự nhiên, giản dị và dễ hiểu. Trong khi “Bình Ngô đại cáo” thể hiện khí phách dân tộc, “Ức Trai thi tập” (thơ chữ Hán) là những mảnh hồn Ức Trai, thì “Quốc âm thi tập” lại thấm đẫm chất dân gian. Thay vì những hình ảnh cao vời, thơ Nôm Nguyễn Trãi gần gũi với cuộc sống, biến hóa thành nghệ thuật nhờ sự tinh luyện kết hợp cảm xúc và trí tuệ, không rơi vào nôm na, mà ánh lên vẻ đẹp ngôn từ.
Đặt thơ Nôm cạnh thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, ta thấy sự khác biệt. Thơ chữ Hán mang tính hướng thượng, đi vào đạo lý, phong hoa tuyết nguyệt, điển tích điển cố. Thơ Nôm lại hướng đến công chúng bình dân với hình ảnh dân gian, cảnh làng quê, sinh hoạt đời thường.
Hoài Thanh nhận xét: “Đi vào thơ Nôm Nguyễn Trãi là chuyện vất vả, có khi thấy rối rít như đi vào rừng sâu… Ðây đó sẽ ánh lên những lời thơ đẹp… Ở đây thì không phải chỉ vài lần mà nhiều lần và ánh lên rất đẹp”. Ông cũng cho rằng thơ Nôm thể hiện tiếng nói tâm tình của Nguyễn Trãi trong những cảnh đời không thuận, một con người đẹp, gần gũi và thân mật hơn.
Vận dụng ngôn ngữ văn học dân gian, thơ Nôm của Nguyễn Trãi đầy gợi tả, để lại dấu ấn đậm sâu. Dù làm quan hay ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Thơ Nôm thể hiện tâm trạng qua các bài thơ như gương báu răn mình, mạn thuật, tự thuật, tự thán. Dù 254 bài thơ Nôm được sưu tầm chưa chắc đã đầy đủ do biến động lịch sử, thơ Nôm của Nguyễn Trãi vẫn là một di sản vô giá.
Đặng Thai Mai đánh giá cao sự cố gắng của Nguyễn Trãi trong việc xây dựng một lối thơ Việt Nam, với câu 6 tiếng xen lẫn 7 tiếng, khác với niêm luật thơ Đường. Bài “Ba tiêu” (“Cây chuối”) là một ví dụ tiêu biểu. Xuân Diệu từng mất 24 năm để hiểu ý nghĩa bài “Cây chuối”, cho thấy sự sâu sắc, đa nghĩa của thơ Nôm Ức Trai.
Nguyễn Trãi không bó buộc mình theo khuôn mẫu mà sáng tạo trong cách gieo vần, dùng từ, tạo nên một lối thơ độc đáo, cá tính và đậm tinh thần dân tộc.
Trong thơ về thiên nhiên, Nguyễn Trãi luôn chắt lọc những tinh túy của bản chất sự vật. Ông sử dụng lối thơ thủ vỹ liên hoàn để thể hiện những dụng ý riêng, tập trung thể hiện cách nhìn vào bản thể, thế sự, cuộc đời thông qua các hình tượng đặc trưng.
Nguyễn Sỹ Đại lý giải về cơ chế sắp xếp ngôn từ, ý tứ kết cấu nên một chùm thơ theo lối thủ vỹ liên hoàn, gần với lối tiểu thuyết chương hồi, tạo sự kết nối giữa các bài, thể hiện trọn vẹn tư tưởng chủ đề của tác giả.
Bên cạnh lối thơ thủ vỹ liên hoàn, bài “Thủ vỹ ngâm” mở đầu “Quốc âm thi tập” cũng gây ấn tượng sâu sắc:
Góc thành Nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dường ai quyến,
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam, lều một gian.
Bài thơ với cách điệp câu đầu cuối để lại những dư vị khó quên, vang vọng thanh âm tới cõi đời.
Qua nhiều áng thơ Nôm, Nguyễn Trãi thể hiện chân thực cách nhìn đời, nhìn người. Quan trường bon chen là nơi ông muốn lánh xa nhưng cũng là nơi ông mong được “lặn lội” để cứu nước giúp đời. “Quốc âm thi tập” là bài học vẹn nguyên về lẽ ứng xử.
Nguyễn Trãi đề cao giáo dục tinh thần nhân ái, tình yêu thương, trách nhiệm đối với gia đình, xã hội, đạo nghĩa quân – thần, gửi vào thơ Nôm quan niệm sống đầy đạo nhân. Nhiều câu thơ Nôm của ông như bước ra từ ca dao, tục ngữ, thậm chí có những câu còn ra đời trước.
Vũ Bình Lục chỉ ra sự kế thừa và lan tỏa của thơ Nôm Ức Trai đến văn học dân gian. Thơ Nguyễn Trãi có câu: “Lận cận nhà giàu no bữa cốm/ Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn” thì sau này tục ngữ có câu: “Ở cạnh nhà giàu đau răng ăn cốm/ Bạn bè, kẻ trộm ốm lưng chịu đòn”.
Dù thơ Nôm đã xuất hiện trước Nguyễn Trãi, nhưng ông đã có những sáng tạo vượt bậc, với chiều sâu tâm sự chất chứa trong cảm xúc và ngôn từ, nói được những trăn trở muôn đời của nhân sinh.
Dù soi chiếu vào cội nguồn thi ca truyền thống hay lý thuyết văn chương hiện đại, thơ Nôm Ức Trai đều bộc lộ giá trị riêng, thể hiện những suy tư mà thời đại nào cũng đồng vọng. Cống hiến của Nguyễn Trãi với dòng thơ Nôm trung đại và văn học dân tộc, nhân loại càng sáng lên theo thời gian.
Dương Bá Cung đã dày công sưu tầm thơ văn của Ức Trai, tìm được bộ sách “Ức Trai di tập” trong dân gian. Nhờ ông, chúng ta có điều kiện tiếp cận sâu sắc tài năng, trí tuệ và tâm hồn Nguyễn Trãi. Dương Bá Cung được công nhận là người đầu tiên sưu tầm trọn vẹn 254 bài thơ Nôm của Ức Trai.
Trần Trọng Dương đã xây dựng từ điển chuyên biệt về từ ngữ trong “Quốc âm thi tập”, cuốn “Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển”, là từ điển tác gia đầu tiên về Nguyễn Trãi và từ điển đầu tiên về tiếng Việt cổ thế kỷ 15. Ông đã soạn ra 2.500 mục từ và khảo sát 12.000 lượt âm tiết, sưu tập toàn bộ từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ được Nguyễn Trãi vận dụng trong tập thơ Nôm cổ nhất.