Hiệp định Paris về Việt Nam, ký kết vào tháng 1 năm 1973, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Sự kiện này không chỉ là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân cả hai miền Nam Bắc mà còn là minh chứng cho sự thất bại của các chiến lược quân sự và chính trị của Mỹ tại Việt Nam. Vậy, thắng lợi nào đã buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và chấp nhận ký kết hiệp định này?
Sau Hiệp định Geneva năm 1954, Mỹ từng bước can thiệp sâu vào miền Nam Việt Nam, biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới. Cuộc chiến tranh kéo dài, với nhiều hy sinh mất mát, đã tôi luyện ý chí và sức mạnh của quân và dân ta.
Năm 1968, sau những thất bại nặng nề trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại miền Bắc, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris. Mặc dù các phiên họp năm 1968 không mang lại kết quả cụ thể, nhưng nó mở ra một giai đoạn đấu tranh ngoại giao trực diện với Mỹ.
Trong quá trình đàm phán, Việt Nam kiên trì lập trường về tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến, lên án tội ác chiến tranh của Mỹ, đòi Mỹ rút quân và chấm dứt ném bom miền Bắc. Tình hình chiến trường bất lợi và áp lực từ dư luận trong nước đã khiến Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc vào ngày 1/11/1968.
Sau đó, Hội nghị Bốn bên chính thức khai mạc vào tháng 1 năm 1969, bao gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Sài Gòn). Các cuộc đàm phán diễn ra gay gắt, gián đoạn do lập trường khác biệt giữa các bên.
Trong bối cảnh đó, cả Việt Nam và Mỹ đều cố gắng giành thắng lợi quân sự quyết định để tạo lợi thế trên bàn đàm phán. Các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia năm 1971, cùng các chiến dịch Trị – Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ… năm 1972 đã gây cho quân Mỹ – ngụy những thiệt hại nặng nề, làm phá sản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và tạo thế chủ động cho ta trên bàn đàm phán.
Ngày 8/10/1972, Việt Nam đưa ra dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam”. Ban đầu, các bên nhất trí với dự thảo, nhưng sau đó Mỹ lật lọng, viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu để đòi sửa đổi.
Điểm mấu chốt, thắng lợi quyết định buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris chính là chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” diễn ra trong 12 ngày đêm cuối năm 1972.
Việc 38 pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà Nội đã giáng một đòn chí mạng vào không lực Hoa Kỳ, làm phá sản hoàn toàn chiến dịch quân sự cuối cùng của Nixon. Thất bại này, cùng với tình hình chiến trường miền Nam ngày càng bất lợi, đã đẩy Mỹ vào thế không thể gượng nổi, buộc phải nối lại đàm phán tại Paris.
Với tư thế của người chiến thắng, phái đoàn Việt Nam đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thỏa thuận.
Hiệp định Paris được ký kết, buộc Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Như vậy, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là yếu tố quyết định, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ, buộc họ phải ký Hiệp định Paris, mở ra một trang mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Việt Nam.