Chế độ quân điền là một chính sách ruộng đất quan trọng được ban hành dưới thời nhà Lê, thể hiện tư tưởng “người cày có ruộng”. Chính sách này đóng vai trò then chốt trong việc ổn định xã hội và phát triển kinh tế nông nghiệp sau thời kỳ chiến tranh.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1417-1427) thắng lợi đã mở ra một giai đoạn phát triển mới cho chế độ phong kiến Việt Nam, với việc xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền vững mạnh. Chiến thắng trước quân Minh không chỉ khôi phục nền độc lập dân tộc mà còn tạo điều kiện thuận lợi để củng cố chính trị và phát triển kinh tế. Nông nghiệp, nền tảng kinh tế lâu đời của đất nước, tiếp tục được nhà nước quan tâm hàng đầu.
Nhà Lê đặc biệt chú trọng đến phát triển kinh tế, thực hiện nhiều biện pháp tích cực để thúc đẩy nông nghiệp, bao gồm chính sách khẩn hoang, lập đồn điền, xây dựng đê điều và các công trình thủy lợi. Tuy nhiên, chính sách ruộng đất với chế độ “lộc điền” và “quân điền” là quan trọng nhất. Nhà Lê tịch thu ruộng đất từ tay quân Minh và tay sai, cùng với điền trang, thái ấp của quý tộc trước đây và ruộng hoang hóa, tất cả được sung làm ruộng đất công. Phần lớn quỹ đất công này được chia cho dân cày cấy thông qua chế độ quân điền.
Phép quân điền được Lê Lợi ban hành năm 1429 và hoàn thiện vào thời Lê Thánh Tông; bộ ‘luật quân điền’ được chép trong Thiên Nam dư hạ tập năm 1481. Chính sách này đã thu hẹp ruộng đất phong và mở rộng ruộng đất công xã, đưa ruộng đất trực tiếp đến tay người dân.
Chính sách quân điền giúp giải quyết khá tốt mối quan hệ sở hữu ruộng đất giữa nhà nước với quý tộc, quan lại và giữa nhà nước với nhân dân. Dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), nông nghiệp được đặc biệt coi trọng. Vua đích thân thực hiện lễ Tịch điền vào đầu năm để khuyến khích sản xuất nông nghiệp.
Một năm sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông ra sắc chỉ cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn rằng: “Từ nay về sau, trong việc làm ruộng, phải khuyến khích quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh nhai, để đủ ăn mặc, không được bỏ gốc theo ngọn, hoặc kiếm chuyện buôn bán, làm trò du thủ du thực. Người nào có ruộng đất mà không chăm cày cấy, thì quan cai trị bắt trình trị tội”.
Chế độ lộc điền được áp dụng để bảo vệ quyền lợi của quý tộc, tông thất và quan lại cao cấp, thúc đẩy sự phát triển của giai cấp địa chủ, tầng lớp thống trị mới trong xã hội phong kiến. Ngược lại, chế độ quân điền có tác dụng tích cực trong việc phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo điều kiện cho nhà nước huy động nhân lực và vật lực cho quốc phòng. Chế độ quân điền thời Lê Sơ còn góp phần giảm bất công xã hội, động viên những người có công đóng góp xây dựng quân đội, bảo vệ đất nước. Lê Lợi (Lê Thái Tổ) từng nói: “Người đi đánh giặc thì nghèo, người đi rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước, một tấc đất để ở, mà những kẻ du thủ du thực không có ích gì cho nước lại có ruộng đất quá nhiều… Nay sắc cho các đại thần bàn định số ruộng cấp cho quan, quân và dân, trong từ đại thần trở xuống đến các người già yếu, mồ côi, goá chồng, đàn ông, đàn bà trở lên”. Chính sách này thể hiện sự quan tâm của nhà nước đến những người có công và những đối tượng yếu thế trong xã hội.