Tìm hiểu về quá khứ là một nhu cầu thiết yếu của con người, và việc kể chuyện lịch sử xuất hiện một cách tự nhiên trong nhiều nền văn minh trên thế giới. Lịch sử thành văn đã được ghi lại dưới dạng những câu chuyện kể từ thời cổ đại, giúp các thế hệ sau hiểu biết về những sự kiện đã qua. Do đó, sử học đã phát triển rất sớm trên con đường khai trí của loài người. Người xưa thường sử dụng các hình thức văn chương như ca dao, vè, văn bia… để ghi lại những sự việc đã xảy ra, phần lớn được quan niệm và xây dựng để phục vụ mục đích lịch sử.
Ngày nay, với sự phát triển đa dạng về phương pháp và cách giải thích, sử học trở thành một ngành khoa học xã hội quan trọng, giúp giải phóng tâm thức con người khỏi những thành kiến hẹp hòi, bảo thủ, bè phái, quốc gia, làng xã… Một kiến thức sử học căn bản giúp tư duy chính trị và xã hội của nhà nghiên cứu sắc sảo hơn, tránh rơi vào những đám mây mù trừu tượng phi thực tế.
Bài viết này trình bày những kiến thức nền tảng và cập nhật trong lĩnh vực sử học, đồng thời giúp người đọc hiểu được nhiều dạng thức lịch sử và cách tiếp cận khác nhau đối với một chủ đề lịch sử. Nó cũng cung cấp thông tin hữu ích cho những nhà nghiên cứu trẻ, giúp họ bắt kịp, hiểu và tham gia thảo luận về những vấn đề sử học đang được tranh luận hiện nay tại các hội thảo khoa học quốc tế.
1. LỊCH SỬ LÀ GÌ?
Hiện nay, đa số sử gia trên thế giới đều đồng ý rằng lịch sử là một ngành phức tạp, đa diện và bao trùm nhất trong tất cả các ngành khoa học xã hội. Lịch sử khó định nghĩa một cách chính xác vì con người, cả hiện tại và quá khứ, có những định kiến và quan điểm khác nhau về nó. Hầu hết các định nghĩa thường chỉ đúng một phần, nhưng thuật ngữ “Lịch sử” nên được hiểu theo những định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu sử học gần đây đồng ý:
- Việc diễn ra trong quá khứ: Tất cả những sự việc xảy ra cho đến thời điểm hiện tại. Cụ thể, đó là những biến cố đã qua của nhân loại, không thể thay đổi, cố định trong thời gian và không gian. Chúng được coi là tuyệt đối và khách quan – đó là điều đã xảy ra.
- Ghi lại việc diễn ra trong quá khứ: Nỗ lực của con người để nắm bắt quá khứ, diễn đạt nó bằng ngôn ngữ và gán cho nó một ý nghĩa. Điều này mang tính tương đối và chủ quan, chỉ là câu chuyện kể về những gì đã diễn ra theo quan điểm của người ghi lại.
- Làm thành tài liệu của việc diễn ra trong quá khứ: Tiến trình hay kỹ thuật-phương pháp được dùng để làm thành một tài liệu của những việc diễn ra trong quá khứ cũng được coi là “Lịch sử”. Phương pháp này đã biến lịch sử trở thành một khoa học.
Theo định nghĩa của Wikipedia, lịch sử là sự nghiên cứu hành động hay cách sinh hoạt của con người qua thời gian. Khi được dùng như tên của một ngành nghiên cứu, lịch sử liên hệ tới việc nghiên cứu và giải thích các tài liệu của con người, gia đình và xã hội như chúng được gìn giữ một cách nguyên vẹn thông qua những nguồn tài liệu viết. Do đó, kiến thức về lịch sử thường bao gồm cả hai, kiến thức về những biến cố của quá khứ và những kỹ năng suy nghĩ và giải thích quá khứ. Như vậy, một cách ngắn gọn, lịch sử là những gì đã xảy ra liên quan đến con người sống trong xã hội và được ghi chép lại theo một phương pháp, hay vắn tắt hơn, lịch sử là con người hiểu biết về quá khứ của mình.
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy Phương Pháp Lịch Sử nằm ngay trong bản thân từ “Lịch sử”.
2. PHƯƠNG PHÁP LỊCH SỬ
Phương pháp lịch sử là hệ thống các nguyên tắc được đặt ra để đem lại hiệu quả trong việc thu thập nguồn tài liệu lịch sử, đánh giá chúng một cách có phê phán và đưa ra một tổng hợp của những kết quả có được, đồng thời giải thích kết quả làm sao để đạt được chân dung của quá khứ. Đây là định nghĩa được đa số sử gia hiện nay đồng ý.
Hình ảnh sách lịch sử với nhiều màu sắc, biểu tượng cho sự phong phú của tri thức và phương pháp lịch sử
Sách lịch sử, nguồn tri thức vô tận giúp chúng ta hiểu về quá khứ
Theo Wikipedia, phương pháp lịch sử bao gồm những kỹ thuật và những chỉ dẫn dựa vào đó sử gia sử dụng tài liệu gốc và những tài liệu khác để nghiên cứu và viết thành lịch sử.
Trong phần này, chúng ta sẽ trình bày từng bước một để phân biệt giữa phương pháp (kỹ thuật) viết một tác phẩm sử học (historical method) và phương pháp giải thích lịch sử (historical interpretation).
2.1. Phương pháp căn bản để viết một tác phẩm sử học (Historical Method/ Methodology/Approach)
2.1.1. Phương pháp viết sử dựa trên các tài liệu viết
- Xác định một vấn đề lịch sử hoặc việc nhận định một nhu cầu hiểu biết về một vấn đề lịch sử nào đó.
- Tập hợp thông tin có liên hệ cho vấn đề lịch sử được xác định càng nhiều càng tốt. Nghiên cứu thông tin trong những nguồn tài liệu đó và đánh giá có phê phán nguồn thông tin để hiểu những động cơ đằng sau đó, nếu có.
- Thành lập giả thuyết thử giải thích các mối quan hệ giữa các yếu tố lịch sử trong các tài liệu vừa thu thập.
- Tập hợp và sắp xếp các chứng cớ, xác minh tính chân thật và đáng tin cậy của thông tin và nguồn tài liệu của thông tin đó.
- Tuyển chọn, sắp xếp và phân tích những chứng cớ được sưu tập có quan hệ trực tiếp nhất với vấn đề đặt ra, và rút ra kết luận.
- Viết lại những kết luận trong một dạng tường thuật có ý nghĩa hay sự tổng hợp cuối cùng tài liệu và trình bày chúng theo những quan điểm cá nhân hay theo phương pháp riêng của từng sử gia.
2.1.2. Phương pháp viết sử qua sự tường thuật lại của các nhân chứng
2.1.2.1. Thế nào là lịch sử qua sự tường thuật lại của các nhân chứng (Oral History)?
Lịch sử qua sự tường thuật lại của các nhân chứng là một tập hợp có hệ thống sự tường thuật lại của những con người còn sống về kinh nghiệm riêng của họ đối với một sự kiện lịch sử nào đó đã qua. Lịch sử qua sự tường thuật lại không phải là những câu chuyện dân gian, những chuyện tán gẫu hay những lời đồn. Những sử gia viết sử qua sự tường thuật của các nhân chứng phải xác minh những kết quả có được qua phỏng vấn, phân tích chúng, và đặt chúng trong một bối cảnh lịch sử chính xác. Thao tác phỏng vấn cũng nhằm bổ sung các dữ kiện lịch sử bằng cái nhìn của người trong cuộc.
Trong những dự án đi phỏng vấn, một người được phỏng vấn nhớ lại một biến cố để kể lại cho người đi phỏng vấn ghi chép lại những hồi tưởng đó và tạo ra một tài liệu lịch sử: Biến cố (Event) Người được phỏng vấn (Interviewee) Người phỏng vấn (Interviewer) Tài liệu lịch sử (Historical Record).
2.1.2.2. Các bước phải thực hiện khi viết một tác phẩm sử học dựa trên sự tường thuật của các nhân chứng
- Xác định một vấn đề lịch sử. Xác định mục đích nghiên cứu và nhận định thử phương pháp này sẽ giúp bạn đạt được những mục đích đó hay không.
- Tiến hành nghiên cứu trước những nguồn tài liệu không phải từ phỏng vấn. Đặt những câu hỏi cho những vấn đề bạn muốn biết.
- Xác định những mẫu người để phỏng vấn. Bạn sẽ tuyển chọn những người mà bạn sẽ phỏng vấn như thế nào? Tiếp xúc trước với những người có khả năng bạn sẽ phỏng vấn, giải thích chương trình của bạn và yêu cầu họ giúp đỡ.
- Tập hợp những trang thiết bị thích hợp với mục đích của bạn, như máy thâu thanh, thâu hình…
- Phỏng vấn.
- Sắp xếp và trình bày kết quả phỏng vấn theo những quan điểm cá nhân hay theo phương pháp riêng của từng sử gia.
Tiến trình làm thành tác phẩm sử học ở khâu cuối cùng (cho cả 2 phương pháp) nêu trên cũng còn được gọi là phương pháp giải thích lịch sử.
2.2. Phương pháp giải thích lịch sử hay yếu tố giải thích trong sử học (Historical Interpretation) – Vai trò của sử gia
- Định nghĩa: Sự giải thích lịch sử về bản chất là những nỗ lực suy tư sâu sắc để mô tả hay làm rõ những việc xảy ra trong quá khứ.
Sự giải thích lịch sử là suy tư của những người nghiên cứu quá khứ, không phải là những người tham gia trong những biến cố của quá khứ. Do đó người sáng tạo ra quan điểm không tránh khỏi chịu ảnh hưởng thiên vị bởi sự tác động của người hay biến cố đó trên họ.
Sự giải thích lịch sử hầu như là then chốt của một tác phẩm sử học: Sử gia chỉ có trong tay những văn bản lịch sử (texts) hiểu theo nghĩa rộng và sử gia phải giải thích chúng căn cứ trên hiểu biết của họ về toàn thể bối cảnh (context) trong đó các văn bản đó bộc lộ ra ý nghĩa của chúng. Do đó sử gia bắt buộc phải là người cực kỳ uyên bác về rất nhiều lĩnh vực: họ phải am hiểu các cổ ngữ liên hệ (chẳng hạn khi khảo sát các văn bia Hán-Nôm), phải am hiểu nền văn hóa cổ đại (trong đó tấm văn bia được viết ra) trong toàn thể tính của nền văn hóa này, mà muốn am hiểu được toàn thể tính của một nền văn hóa, sử gia lại phải biết đến xã hội học, nhân chủng học, khảo cổ học, văn bản học, ngôn ngữ học, văn hóa học, v.v. Nói một cách khác, sử học chỉ có giá trị hấp dẫn, sống động khi có giải thích. Do đó một vấn đề lịch sử xưa cũ đến đâu vẫn cứ được nghiên cứu đi, nghiên cứu lại mãi. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), Trần Quốc Vượng giải thích “Phù Đổng vốn là ‘Xung Thiên Thần Vương’ của thời Lý”. Thế nhưng, theo giải thích của Nguyễn Tự Cường khi ông nghiên cứu tôn giáo Việt Nam thời Trung cổ thì Tỳ sa môn Thiên Vương (hay Sóc Thiên Vương), một thần linh Ấn giáo, đã chuyển biến thành Phù Đổng Thiên Vương Việt Nam. Nguyễn Tự Cường đọc các tư liệu lịch sử trong một viễn cảnh khác với Trần Quốc Vượng và đã có những giải thích về Thánh Gióng khác với Trần Quốc Vượng nhưng ông cũng không tuyên bố là giải thích của mình “đúng” hơn nghiên cứu của Trần Quốc Vượng.
Sử gia và sự kiện lịch sử có một mối quan hệ biện chứng: Sử gia bị hạn chế bởi sự kiện lịch sử: sử gia không thể nói một vấn đề lịch sử khi không dựa trên sự kiện lịch sử và sự kiện lịch sử chỉ có giá trị với sự giải thích của sử gia. Sự kiện lịch sử không bao giờ tồn tại một cách độc lập với sự giải thích và nhận thức của sử gia. Chẳng hạn, lịch sử Việt Nam là sự giải thích lịch sử của các sử gia từ Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, đến Hoàng Xuân Hãn, Trần Trọng Kim, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Đinh Xuân Lâm, Philippe Devillers, Jean Chesneaux, John Whitmore, Keith Taylor, Alexander Woodside, David Marr… và nhiều sử gia khác, nhiều học giả liên ngành khác. Sử gia là trí nhớ của một dân tộc vì chính họ là người đọc và giải thích quá khứ.
- Sử học là một sự giải thích liên tục các biến cố lịch sử (continual hermeneutics of historical events): Chính trong sự giải thích này mà một biến cố mới thực sự trở thành một biến cố lịch sử hay một nhân vật nào đó mới thực sự trở thành nhân vật lịch sử.
- Sử học là một ngành khoa học mang nhiều tính chủ quan: Sử học hiện đại nhấn mạnh sự giải thích lịch sử chính là để nhấn mạnh vai trò của sử gia, vì vậy, sử học là một ngành khoa học không tránh khỏi sự chủ quan. Thật vậy, đọc lịch sử cách mạng Pháp tức là đọc Jules Michelet hay François Crouzet, v.v. Đọc lịch sử La Mã tức là đọc Theodor Mommsen, v.v. Đọc lịch sử đời Tần-Hán của Trung Quốc tức là đọc lời kể của Tư Mã Thiên, v.v. Các sử gia trên đã xử lý, thuật sự hóa và tiến hành giải thích các biến cố lịch sử, truyền cho chúng một ý nghĩa để phục sinh quá khứ trong cái nhìn của hiện tại.
Các học giả Mỹ gần đây có khuynh hướng sang Việt Nam để phỏng vấn các nhân vật liên quan trực tiếp đến lịch sử Việt Nam hiện đại. Bằng cách trình bày song song những cái nhìn khác nhau của những người trong cuộc, thậm chí tương phản nhau về cùng một biến cố lịch sử, các sử gia cho thấy tính chất phức tạp, đa diện của chính biến cố và nhấn mạnh yếu tố giải thích trong phương pháp sử học.
Từ sự giải thích lịch sử này, nhiều quan điểm khác nhau đã xuất hiện và nhiều trường phái giải thích lịch sử đã ra đời từ thời cổ đại cho đến ngày nay.
3. LỊCH SỬ CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢI THÍCH LỊCH SỬ – CÁC TRƯỜNG PHÁI CHÍNH CỦA PHƯƠNG TÂY
3.1. Phương pháp kể lại một câu chuyện thật (narrative): 4.000-500 trước Công nguyên (BC)
Herodotus of Halicarnassus (484-425 BC): Sử gia Hy Lạp, được xem là sử gia đầu tiên của thế giới phương Tây và được coi là cha đẻ của ngành sử học. Ông là người sáng tạo ra phương pháp kể một câu chuyện thật, có đầu đuôi theo một trình tự thời gian (chronological order), không bình luận gì hết. The Histories (Những câu chuyện lịch sử) của Herodotus là tác phẩm lịch sử sơ khai nhất.
Trong tác phẩm này, Herodotus đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của phương pháp nghiên cứu lịch sử khi ông cố gắng nhận ra những lời kể nào hay câu chuyện nào là đáng tin cậy hay kém tin cậy và đích thân đi nhiều nơi để nghiên cứu và xác minh. Kết quả là ông có được một câu chuyện trung thực (không định kiến) đáng chú ý về nhiều nền văn hóa vùng Địa Trung Hải.
3.2. Phương pháp kể lại một câu chuyện thật nhưng mang tính chất giáo huấn (didactic): 500 (BC) – thế kỷ XVII sau Công nguyên (AD).
3.2.1 Thucydides [460-400 (BC)]: Sử gia Hy Lạp, được xem như là nhà sử học khoa học đầu tiên vì ông mô tả thế giới loài người được tạo ra bởi con người, không có sự can thiệp của Thượng đế. The Peloponnesian War (Cuộc chiến tranh Peloponnesus) là tác phẩm sử học của Thucydides kể lại cuộc chiến tranh giữa người Sparta và Athens. Tác phẩm này được xem là công trình sử học đầu tiên của thể loại sử mang tính chất giáo huấn, vì mục đích của nó là giảng dạy hơn là giải trí.
Thucydides, trái ngược với Herodotus, chủ yếu loại bỏ quan hệ nhân quả mang yếu tố thần thánh trong các ghi chép của ông về cuộc chiến giữa người Athens và Sparta. Ông đã thiết lập yếu tố giải thích mang tính chất duy lý cho sử luận của phương Tây sau này. Ông cũng là người đầu tiên phân biệt giữa nguyên nhân xa và nguồn gốc trước mắt của một sự kiện lịch sử.
3.2.2. Polybius (203-120 BC): Sử gia Hy Lạp cổ đại cuối cùng đã đưa ra những ý tưởng như là quan điểm của sử gia và quy mô của tác phẩm sử học. Trong tác phẩm The Histories or the Rise of the Roman Empire from 220 to 146 BC (Những câu chuyện lịch sử hay sự xuất hiện của đế quốc La Mã từ năm 220 đến 146 trước Công nguyên), ông đã giới thiệu lịch sử như một chuỗi dài nhân quả, dựa trên sự nghiên cứu cẩn thận các truyền thống cùng với sự phê bình sắc bén một phần dựa trên những điều ông nhìn thấy và một phần dựa trên đối thoại của những người chứng kiến hay những người tham gia trong những biến cố đó. Qua tác phẩm này, ông ta đã cho thấy một cái nhìn thống nhất về lịch sử hơn là kể một câu chuyện theo trình tự thời gian. Vì thế, Polybius được các sử gia ngày nay xem là nhà sử học đáng được chú ý nhất của thời Cổ đại.
3.2.3. Từ năm 100 (AD) đến thế kỷ XVIII: Sự ra đời của Thiên Chúa giáo là sự kiện lịch sử quan trọng nhất của giai đoạn này. Những nhà viết sử Thiên Chúa giáo thời Trung cổ là những nhà viết sử điển hình cho dạng viết sử với mục đích giáo huấn. Lịch sử thành văn phổ biến trong giới tu sĩ Thiên Chúa giáo thời Trung cổ. Họ viết về lịch sử nhà thờ và về những người bảo trợ cho họ, lịch sử các giai đoạn cầm quyền của những nhà cai trị tại địa phương. Họ xem việc diễn ra trong quá khứ như một định luật cho hành động và viết sử với hy vọng mang lại những chỉ nam cho người đọc: hoặc xưng tụng Thiên Chúa, một nhóm xã hội nào đó hay một cá nhân. Trong suốt thời Phục hưng, lịch sử chủ yếu được viết về các nhà nước hoặc các quốc gia, các vị vua và các triều đại. Các sử gia khi thì tập trung vào các chủ đề được định ra nhằm hoàn thiện con người, khi thì tập trung mô tả các sự kiện có thực, như thiên sử thi miêu tả những hành động anh hùng. Song of Roland (Bài ca Roland) của Einhard (Eginhard, Einhart) (775-840 AD) kể về trận chiến Roncevaux Pass trong chiến dịch đầu tiên của Charlemagne nhằm chinh phục bán đảo Iberia. Các sử gia nổi tiếng trong thời kỳ này như Eusebius of Caesarea (275-339 AD) với tác phẩm Chronicle (Tài liệu về những biến cố xảy ra theo trình tự thời gian) và History of the Church (Lịch sử Nhà thờ), Gregory of Tours (538-594 AD) với History of the Franks (Lịch sử của người Franks), Bede (672-735 AD) với quyển Ecclesiastical History of the English Nation (Lịch sử giới tu sĩ của nước Anh). Dạng thức viết sử với mục đích giáo huấn là dạng thức nổi bật trong suốt thời Trung cổ và kéo dài cho tới thời kỳ Ánh sáng, với Leopold von Ranke, sử gia người Đức, cha đẻ của nền sử học hiện đại.
3.3. Phương pháp giải thích lịch sử của Leopold von Ranke
Ranke (1795-1886) là sử gia Đức vĩ đại của thế kỷ thứ XIX. Ông được xem là người sáng lập ra môn lịch sử “khoa học” và là cha đẻ của nền sử học hiện đại vì ông đã thiết lập phương pháp nền tảng cho nhiều cách viết sử sau này như nhấn mạnh đến việc đi sâu vào nguồn tài liệu, giới thiệu những ý tưởng như là dựa trên tài liệu gốc ở các lưu trữ, nhấn mạnh về lịch sử tường thuật (narrative history) và đặc biệt là lịch sử chính trị quốc tế.
Phương pháp viết sử của Ranke là viết sử theo cách như nó là, viết theo lời kể của nhân chứng, và nhấn mạnh quan điểm của người chứng kiến. Ông ta phản đối những lối viết sử có mục đích khi đánh giá thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước.
Trọng tâm của phương pháp lịch sử của Ranke: ông không tin rằng có những phương pháp chung (tổng quát) hay những lý thuyết phổ biến vượt qua được giới hạn không gian và thời gian. Ranke phản đối cách tiếp cận lịch sử theo thuyết cứu cánh khi cho rằng mỗi giai đoạn lịch sử đi sau cao hơn giai đoạn lịch sử trước đó. Ông cho rằng mỗi một thời kỳ của lịch sử là duy nhất và phải được hiểu trong chính bối cảnh của nó. Câu nói nổi tiếng thể hiện quan điểm lịch sử của Ranke: “Sau Plato, không thể có Plato nào khác”.
Geschichte der romanischen und germanischen Völker von 1494 bis 1514 (Lịch sử các quốc gia nói các ngôn ngữ Latin và German từ năm 1494 đến 1514) (1824) là tác phẩm sử học đầu tiên của Ranke, trong đó ông sử dụng nhiều nguồn tư liệu đặc biệt để trở thành một sử gia của thời đại như những bản báo cáo của nhân chứng trực tiếp, công văn, công hàm ngoại giao, tài liệu của chính phủ, thư từ cá nhân, hồi ký và nhật ký. Trong tác phẩm này, Ranke chứng minh tính nhất quán trong kinh nghiệm của các quốc gia sử dụng các ngôn ngữ “German” (bán đảo Scandinavia, Anh và Đức) và các quốc gia sử dụng các ngôn ngữ “Latin” (Ý, Tây Ban Nha và Pháp) sau tác động to lớn của Thập Tự Chinh, quá trình thực dân hóa và Völkerwanderung (cuộc di cư với quy mô rộng khắp). Ông cho rằng tất cả những tác động này đã nối kết tất cả các quốc gia trên lại với nhau và hình thành nên nền văn minh châu Âu hiện đại.
Nhiều sử gia ngày nay đã xem lời tuyên bố của Ranke rằng lịch sử nên nắm vững nguyên tắc “wie es eigentlich gewesen” (thể hiện những gì đã thực sự diễn ra) như nguyên tắc chủ đạo. Tuy nhiên, cũng có một số tranh luận xung quanh ý nghĩa chính xác của cụm từ này. Một vài nhà nghiên cứu sử cho rằng “wie es eigentlich gewesen” có nghĩa là sử gia chỉ nên đưa ra các sự kiện lịch sử và không kèm theo bất cứ quan điểm cá nhân nào; và một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng ý của Ranke là sử gia phải khám phá các sự kiện lịch sử và tìm ra tư tưởng phổ biến của thời đại tác động lên những sự kiện này.
3.4. Trường phái Marxist
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Karl Marx (1818-1883) đã tạo một ảnh hưởng to lớn về mặt sử luận trong tất cả các trường phái giải thích lịch sử.
Trọng tâm của phương pháp giải thích lịch sử của Marx nằm ở chủ nghĩa duy vật lịch sử. Marx cho rằng những nguyên nhân của sự phát triển và thay đổi trong xã hội loài người nằm trong việc tìm kiếm tư liệu sống, một sự kiện căn bản đối với mọi xã hội từ thời cổ đại cho đến ngày nay. Marx đã lấy việc tìm kiếm tư liệu sống làm điểm xuất phát để nghiên cứu lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx đã chú trọng những quan hệ mà con người tham gia trong quá trình sản xuất ra đời sống của mình, và đã nhìn thấy trong hệ thống những quan hệ sản xuất ấy cái cơ sở hạ tầng hiện thực của một xã hội nhất định được bao phủ bằng những kiến trúc thượng tầng như chính trị, pháp luật và những hình thức khác nhau của tư tưởng xã hội.
Theo Marx, hệ thống lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng hợp thành một cấu trúc xã hội mà Marx gọi là hình thái kinh tế xã hội. Marx cho rằng xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội, và toàn bộ các thời kỳ lịch sử đã qua là sự phát sinh, phát triển và tiêu diệt của các hình thái kinh tế xã hội. Marx nhấn mạnh, sự thay đổi từ hình thái xã hội này sang hình thái xã hội khác được tiến hành thông qua cách mạng xã hội. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không thể điều hoà thì cách mạng xã hội nổ ra, và chỉ thông qua cách mạng xã hội thì quan hệ sản xuất lạc hậu mới bị huỷ bỏ để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Qua đó, Marx giải thích, đấu tranh giai cấp là động lực căn bản của chuyển động lịch sử và lịch sử, sẽ tự nó lặp đi lặp lại, như được thể hiện trong tác phẩm Der 18te (achtzehnte) Brumaire des Louis-Napoléon (Ngày mười tám sương mù của Louis-Napoléon Bonaparte).
Ngày 18 sương mù của Louis-Napoléon là tác phẩm căn bản thể hiện quan điểm của Marx về lịch sử. Tác phẩm này đã cho thấy Marx như là một sử gia chính trị và xã hội. Trong Ngày 18 sương mù của Louis-Napoléon Bonaparte, Marx đã xem xét những biến cố lịch sử đương thời (những biến cố đưa tới cuộc đảo chính của Louis-Napoléon Bonaparte, tức Napoléon III (1808-1873) vào ngày 2/12/1851), từ quan điểm duy vật lịch sử. Tác phẩm này chủ yếu nói tới biến cố ngày 9 tháng 11 năm 1799 (tức ngày 18 Brumaire của Năm thứ VIII) trong chương trình hành động của cách mạng Pháp, ngày mà chú của Louis-Napoléon Bonaparte, tức Napoléon đệ I (Napoléon Bonaparte, 1769-1821) đã tự biến mình thành một nhà độc tài bằng một cuộc đảo chánh. Chương trình hành động này là nguồn tài liệu của một trong những câu mà Marx thường trích dẫn, “lịch sử sẽ tự nó lặp lại” (tính quy luật): biến cố đầu tiên như là một bi kịch, rồi biến cố tiếp theo như một vở hài kịch [biến cố đầu tiên Marx muốn liên hệ tới Napoléon I (1799), biến cố sau liên hệ tới Napoléon III (1851)].
Marx đã nói trong lời mở đầu của Ngày 18 sương mù… là ông viết tác phẩm này để chứng minh cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp đã tạo ra những tình huống và những mối quan hệ mở đường cho đám đông quần chúng đóng vai trò của những người hùng trong lịch sử.
Giải thích của Marx về sự xuất hiện và cai trị của Louis-Napoléon Bonaparte là mối quan tâm thích thú của các học giả sau này nghiên cứu về bản chất và ý nghĩa của chủ nghĩa Fascist. Nhiều học giả theo trường phái Marxist coi cuộc đảo chính này (1851) như là một dấu hiệu báo trước cho hiện tượng Fascism ở thế kỷ XX.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx xem “lịch sử là bản thân hiện thực khách quan, tồn tại và phát triển theo một logic, không phụ thuộc vào ý thức của con người”. Do đó, chủ nghĩa Marx đã đưa ra phương pháp lịch sử và phương pháp logic như là hai mặt biểu hiện của phương pháp biện chứng Marxist để nghiên cứu lịch sử. Ngoài ra, phương pháp lịch sử Marxist còn đưa ra một số phương pháp để giải quyết những vấn đề lịch sử cụ thể như phương pháp phân tích logic biện chứng, phương pháp so sánh và phương pháp trừu tượng và khái quát.
Hầu hết những sử gia không Marxist ngày nay vẫn dùng những công cụ phát triển trong sử luận Marxist như phân tích biện chứng của những sự hình thành xã hội, phân tích giai cấp, hay việc mở rộng quy mô của lịch sử vào lịch sử xã hội. Sử luận Marxist cung cấp những nền tảng vững chắc đầu tiên cho lịch sử xã hội và vẫn đang có ảnh hưởng sâu rộng trong lĩnh vực này.
3.5. Trường phái Biên niên sử
Trường phái Biên niên sử do Marc Bloch và Lucien Fèbvre sáng lập vào năm 1929, khi họ đang giảng dạy tại Đại học Strasbourg. Đây là một trường phái viết sử của Pháp lấy tên từ một tạp chí học thuật, Annales d’histoire économique et sociale. Trường phái Biên niên sử xuất hiện như một phản ứng chống lại sự thống trị của lịch sử chính trị và ngoại giao ở Pháp và ở các nơi khác vào đầu thế kỷ XX bởi các sử gia đi theo truyền thống của sử gia Đức Ranke. Marc Bloch và Lucien Febvre nhanh chóng gắn bó với phương pháp biên niên mới lạ, bao gồm địa lý, lịch sử và những phương pháp xã hội học của nhóm Année Sociologique để đưa ra một phương pháp nghiên cứu lịch sử mới, phủ nhận sự quá nhấn mạnh vào chính trị, ngoại giao và chiến tranh của nhiều sử gia đương thời. Trường phái Biên niên sử đã làm thay đổi lịch sử của phương pháp viết sử một cách triệt để ở Âu châu trong suốt thế kỷ thứ XX, và có lẽ là trường phái nổi tiếng nhất sau trường phái Marxist. Trường phái Biên niên sử được biết đến nhiều nhất về việc đưa những phương pháp khoa học xã hội như xã hội học, nhân chủng học, kinh tế học, tâm lý học, ngôn ngữ học, địa lý và văn hóa vật chất vào việc nghiên cứu sử học. Phương pháp này còn được gọi là phương pháp liên ngành.
Quan trọng nhất là trường phái Biên niên đã mở rộng một số phương pháp cho việc nghiên cứu sử được coi là “mới” ở thời kỳ đó, bao gồm: sử đối chiếu (histoire comparée), sử về tâm tính hay não trạng (histoire des mentalités), sử định lượng (histoire quantitative). Những sử gia của trường phái Biên niên bắt đầu nhìn vào xã hội như một tổng thể và tiến hành nghiên cứu lịch sử xã hội, một lĩnh vực nghiên cứu mà đa số sử gia ở châu Âu và Bắc Mỹ hiện nay rất quan tâm. Họ chú trọng vào cái mà họ gọi là “la longue durée” (long-term duration): nghiên cứu lịch sử không phải ở một thời điểm cụ thể nào đó, chẳng hạn như những trận đánh riêng lẻ, những ông vua… nhưng là nghiên cứu về sự thay đổi qua thời gian của bất cứ một xã hội nào được chọn để nghiên cứu. Đó là phương pháp nghiên cứu những cấu trúc lịch sử lâu dài (long-term historical structures) thông qua những biến cố lịch sử. Họ chú ý đến những vấn đề như dân số, những đức tin tôn giáo, tâm lý của một thời đại và những chuẩn mực văn hóa. Hầu hết những sử gia theo trường phái Biên niên thường tập trung vào một lĩnh vực và viết một cách dàn trải về lĩnh vực đó.
3.5.1. Marc Bloch (1886-1944) là người sáng lập cũng là thành viên quan trọng nhất trong thế hệ đầu tiên của trường phái Biên niên. Bloch chuyên nghiên cứu về lịch sử thời Trung cổ. Để nghiên cứu về thời kỳ này, ông khởi sự tập trung vào cái mà ông cho là “ảo tưởng tập thể” (illusions collectives) và dùng phương pháp đọc ngược lịch sử (lire l’histoire à rebours) để nghiên cứu. Bloch tin rằng để có kết quả hơn nên tiến hành nghiên cứu từ cái biết đến cái không biết hay chưa biết, do đó, ông đọc lùi lại lịch sử. Ông nghiên cứu xã hội phong kiến, văn hóa phong kiến và ý nghĩa của nó ở thời đại đó, những dạng thức của ký ức tập thể và những cấu trúc của cảm xúc và suy tư của con người thời Trung cổ. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Les rois thaumaturges: étude sur le caractère surnaturel attribué à la puissance royale particulièrement en France et en Angleterre (Những ông vua có phép thần thông: nghiên cứu về tính siêu nhiên được ban cho quyền lực của nhà vua ở Anh và Pháp), Bloch nghiên cứu lòng tin đương thời trong thời kỳ Trung cổ và tiền Hiện đại ở Pháp và ở Anh: nhà vua có thể chữa được bệnh ngoài da được biết như là scrofula (bệnh lao gây sưng một số tuyến có chứa chất nhờn), chỉ bằng cách sờ lên người bệnh. Trong tác phẩm này, Bloch phân tích thái độ của quần chúng đối với vương quyền, đối với tôn giáo và đối với những phép mầu trong suốt một thời gian dài, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII (la longue durée) và so sánh lòng tin này ở Pháp và ở Anh trong suốt 5 thế kỷ. Qua đó, Bloch phê bình “những ảo tưởng tập thể” về một lòng tin như vậy. Bloch cũng phân tích và phê bình sự kiện là làm thế nào lòng tin đó vẫn tiếp tục tồn tại sau thời Trung cổ. Mục đích của Bloch khi viết tác phẩm này là ông ta muốn tìm hiểu một sự kiện lịch sử là lòng tin của quần chúng vào những sự việc không thể xảy ra trong một thời gian dài như thế và vạch ra những nguyên nhân nằm sâu bên dưới của một hiện tượng như vậy. Tác phẩm này có thể được xem như một nghiên cứu về lịch sử tâm lý, một bộ phận của lịch sử xã hội. Bloch đã áp dụng một phần ý tưởng của Durkheim về lòng tin và tâm lý tập thể vào nghiên cứu của mình. Bloch phê bình những nguồn gốc sai lạc của lòng tin và cho rằng những hiện tượng lịch sử phải được giải thích trong đúng bối cảnh của nó. Phương pháp tiếp cận của Bloch cho tác phẩm này dựa trên những ngành khoa học xã hội như xã hội học, nhân chủng học và tâm lý học.
Marc Bloch cũng viết nhiều tác phẩm về xã hội nông thôn và xã hội phong kiến của nước Pháp và của Âu châu thời Trung cổ trong đó ông chú ý đến những cấu trúc xã hội hơn là những biến cố lịch sử.
3.5.2. Lucien Febvre (1878-1956): Sau khi Bloch bị Gestapo giết khi Đức chiếm đóng nước Pháp trong chiến tranh Thế giới II, Lucien Febvre tiếp tục phương pháp Biên niên sử trong những năm 1940 và 1950. Khác với Bloch, Febvre đưa ra một phương pháp nghiên cứu lịch sử mới hơn, đó là đưa ngành địa lý nhân văn (géographie humaine) vào nghiên cứu lịch sử. Do đó, Febvre chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố địa lý trong phương pháp giải thích lịch sử của mình. Febvre cho rằng môi trường tự nhiên hầu như đã ấn định lịch sử của vùng qua tác phẩm sử học đầu tiên của ông, La terre et l’évolution humaine. Introduction géographique à l’histoire (Trái đất và sự tiến hóa của con người. Sự giới thiệu địa lý vào lịch sử). Tác phẩm này nghiên cứu về vùng Normandie của Pháp vào thế kỷ XVI. Chương đầu Febvre dùng để mô tả địa lý của vùng. Ông xem xét sự tương tác qua lại giữa tính ngẫu nhiên, tính logic và tính tất yếu trong lịch sử nhân loại. Qua sự xem xét này, Febvre không hoàn toàn khẳng định chỉ có môi trường tự nhiên là ấn định lịch sử của vùng, mà cho rằng có nhiều đáp trả của con người với môi trường trong đó người ta sống. Loài người, cách của họ sống, và thái độ cũng như đức tin của họ – không hẳn hoàn toàn là địa lý – là đối tượng cho phương pháp giải thích lịch sử của ông. Với phương pháp này, Febvre nhấn mạnh đến những mối quan hệ giữa trái đất và xã hội loài người, chứ không đặt trọng tâm vào ảnh hưởng của trái đất trên con người. Phương pháp của Febvre về vai trò của địa lý trong lịch sử đã được David Moon đặt tên là “chủ nghĩa khả năng của môi trường” (environmental possiblism), để đối lập với “chủ nghĩa tất định của môi trường” (environmental determinism) do Braudel đề xướng trong những thập niên sau.
3.5.3. Fernand Braudel (1902-1985): đã xác định một kỷ nguyên thứ hai của trường phái Biên niên và là nhà sử học có đóng góp quan trọng nhất cho phương pháp giải thích lịch sử trong số các sử gia của trường phái Biên niên. Công trình của ông có nhiều ảnh hưởng trong những thập niên 1960 và 1970, đặc biệt với tác phẩm La Méditéranée et le monde méditérané à l’époque de Philippe II (Vùng Địa Trung Hải và thế giới Địa Trung Hải vào thế kỷ XVI trong thời đại vua Philip II của Tây Ban Nha). Đây là quyển sử viết trên một bình diện rộng. Braudel cũng bắt đầu với môi trường địa lý của vùng Địa Trung Hải qua sự mô tả về núi, đồi, đồng bằng, bờ biển, biển… và cách mà chúng đã ảnh hưởng đến lịch sử của vùng này. Phần hai của cuốn sách tập trung vào những cơ cấu kinh tế của vùng. Phần ba chủ yếu là lịch sử xã hội và chính trị của khu vực Địa Trung Hải. Braudel dành phần cuối của quyển sách để phân tích về cuộc chiến tranh