Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất của “Truyện Kiều” Nguyễn Du, khắc họa sâu sắc nội tâm nhân vật Thúy Kiều và tài năng bậc thầy của đại thi hào trong việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn trích không chỉ tái hiện cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi của Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích mà còn thể hiện tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của nàng.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
“Khóa xuân” là một từ khóa đắt giá, gợi lên hình ảnh Kiều bị giam hãm, tuổi xuân bị giam cầm. Lầu Ngưng Bích, dù có vẻ đẹp “non xa, trăng gần”, nhưng lại là nơi giam cầm thân phận nàng. Không gian “bốn bề bát ngát xa trông” càng làm nổi bật sự cô đơn, lẻ loi của Kiều. Cụm từ “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” gợi cảm giác hoang vắng, vô định.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya” diễn tả sự lặp đi lặp lại, đơn điệu của cuộc sống giam cầm. Kiều “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, vừa cảm nhận vẻ đẹp của cảnh vật, vừa đau xót cho thân phận mình. Cảnh vật và tâm trạng hòa quyện, tạo nên một bức tranh buồn thương.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Chân trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nỗi nhớ Kim Trọng da diết được thể hiện qua các từ “tưởng”, “trông chờ”. Kiều nhớ về lời thề ước “chén đồng” dưới trăng, càng cảm thấy xót xa cho tình cảnh hiện tại. Cụm từ “chân trời góc bể bơ vơ” diễn tả sự cô đơn, lạc lõng của nàng. Câu hỏi tu từ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?” thể hiện sự lo lắng, day dứt của Kiều về chữ tình, về sự chung thủy.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Không chỉ nhớ người yêu, Kiều còn thương nhớ cha mẹ già yếu. Hình ảnh “tựa cửa hôm mai” diễn tả sự mong ngóng của cha mẹ. Câu hỏi “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?” thể hiện sự lo lắng, xót xa của Kiều vì không thể chăm sóc cha mẹ. “Sân Lai cách mấy nắng mưa” gợi sự xa cách về không gian và thời gian. “Gốc tử đã vừa người ôm” thể hiện sự lo lắng về tuổi già sức yếu của cha mẹ.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt dềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bốn câu thơ tả cảnh liên tiếp với điệp ngữ “buồn trông” thể hiện nỗi buồn ngày càng dâng cao trong lòng Kiều. Cảnh “cửa bể chiều hôm” gợi sự cô đơn, hiu quạnh. “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” diễn tả sự mong manh của hy vọng. “Ngọn nước mới sa, hoa trôi man mác” gợi sự trôi nổi, vô định của thân phận. “Nội cỏ rầu rầu, chân mây mặt đất một màu xanh xanh” thể hiện sự tàn úa, tiêu điều của cảnh vật và tâm trạng. “Gió cuốn mặt dềnh, ầm ầm tiếng sóng” gợi sự dữ dội, bất an của tương lai.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” không chỉ là một bức tranh tâm trạng tuyệt đẹp mà còn là một minh chứng cho tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ và bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ đã đi sâu vào lòng người đọc, khơi gợi sự đồng cảm với số phận của Thúy Kiều và sự ngưỡng mộ đối với tấm lòng cao đẹp của nàng. Đồng thời, qua đó ta thấy được giá trị hiện thực sâu sắc khi tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công, tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người.