Phân tích nhân vật bà cụ Tứ học sinh giỏi

Bà cụ Tứ là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Bà không xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện mà chỉ hiện diện khi Tràng, con trai bà, dẫn người vợ nhặt về nhà. Sự xuất hiện của bà không chỉ để hoàn thiện mối quan hệ gia đình mà còn mang một ý nghĩa sâu sắc hơn, thể hiện tấm lòng người mẹ nghèo khổ nhưng giàu tình thương.

Betong Brecht từng nói rằng nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật không chỉ là bản sao của người thật mà còn là hình tượng được xây dựng phù hợp với ý đồ của tác giả. Kim Lân đã khắc họa bà cụ Tứ không tập trung vào vẻ bề ngoài mà đi sâu vào tâm hồn, làm nổi bật những phẩm chất cao đẹp của người mẹ nghèo: thương con, bao dung, nhân hậu và luôn hướng về tương lai dù cuộc sống cùng quẫn. Bà cụ Tứ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng. Cuộc đời bà là chuỗi ngày lặn lội, vất vả, sống nghèo khổ nơi xóm ngụ cư. Bà đã già yếu, dáng đi lọng khọng, ho húng hắng. Cuộc sống vốn đã khó khăn, bà còn phải chịu cảnh mẹ góa con côi, chỉ còn lại Tràng là con trai duy nhất. Hai mẹ con nương tựa nhau trong căn nhà tồi tàn, “rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại” giữa những ngày đói kém năm 1945.

Nguyễn Minh Châu từng nhận định rằng tình huống trong văn chương là một lát cắt của cuộc sống, có thể bất ngờ nhưng lại chi phối nhiều điều trong cuộc đời con người. Kim Lân đã khéo léo lựa chọn thời điểm để bà cụ Tứ xuất hiện, không phải ở đầu mà ở cuối câu chuyện, khi Tràng dẫn vợ về. Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ thay đổi liên tục khi có người đàn bà lạ xuất hiện trong nhà. Bà trở về nhà vào một buổi chiều chạng vạng và ngạc nhiên khi thấy người đàn bà lạ. Sự sốt sắng của Tràng khiến bà băn khoăn, lo lắng. Với sự nhạy cảm của người từng trải, bà run run theo con vào nhà. Sau khi Tràng kể lại mọi chuyện, bà cụ Tứ vỡ lẽ và ngổn ngang bao cảm xúc. Từ đó, diễn biến tâm trạng của bà xoắn sâu vào lòng người đọc, gợi lên sự xót xa.

Kim Lân đã dùng ngòi bút tinh tế để miêu tả nhân vật bà cụ Tứ, khiến người đọc không khỏi xúc động. Ông không đi sâu vào những suy nghĩ phức tạp mà chỉ tập trung vào cái “cúi đầu nín lặng”. Câu văn ngắn gọn này chứa đựng tấm lòng hoài cảm, đầy ân tình của nhà văn. Cái cúi đầu ấy chất chứa bao suy nghĩ, nỗi niềm không thể nói thành lời. Có chút chua xót, tủi hờn và nghẹn ngào khiến người mẹ nín lặng. Bà nhanh chóng hiểu ra mọi chuyện, hiểu vì sao con trai mình lại vui mừng như vậy, hiểu vì sao lại có người đàn bà lạ trong nhà. Sự từng trải giúp bà hiểu ra “biết bao cơ sự” của con trai, của người đàn bà kia và của chính mình.

Từ thương con, bà cụ Tứ chuyển sang tự trách mình: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Câu cảm thán “chao ôi!” thể hiện sự chua xót của người làm mẹ. Còn gì đau đớn hơn khi nghe chuyện trăm năm của con mà lại “cúi đầu”? Ai làm cha mẹ mà chẳng mong con cái yên bề gia thất, nhưng bà cụ Tứ lại “không khỏi chạnh lòng” vì hoàn cảnh khó khăn. Bà trách phận mình không thể lo cho con một đám cưới chu toàn. Bao nhiêu tủi cực, nghẹn ngào nén sau chữ “thì” vô vọng. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận, khi người chết đói “như ngả rạ” lại có người theo con trai mình làm vợ. Dấu chấm lửng “…” thể hiện sự nghẹn ngào, bất lực của người mẹ già. Trần Ninh Hồ từng nói rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người, và Kim Lân đã vẽ đúng cung bậc mà con người hướng đến: con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, nhưng tiêu điểm vẫn là con người.

Nam Cao quan niệm rằng nước mắt là giọt châu của loài người. Kim Lân đã cho ta thấy giọt châu trong tâm hồn người mẹ qua những giọt nước mắt hiếm hoi: “Trong kẽ mắt kèm nhèm rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà đã cố nén giọt nước mắt vào trong, nhưng tình thương con quá lớn, nó tràn qua khỏi vách ngăn. Bà khóc vì thương con và vì tủi nhục cho chính mình. Kim Lân đã miêu tả cận cảnh đôi mắt hằn in dấu chân chim vất vả một đời của người mẹ già. Nguyễn Khuyến từng viết:

“Tuổi già giọt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”

Từ tủi hờn, bà cụ Tứ thương xót cho các con, không chỉ thương cho số kiếp của con mình mà còn thương cả người đàn bà xa lạ. Bà nghẹn ngào: “… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu nói ấy cho thấy bà đã chấp nhận người vợ nhặt là thành viên trong gia đình, lo lắng cho hạnh phúc của chúng giữa cảnh khốn cùng. Rồi: “Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà”. Tiếng thở dài là tiếng thở của bao lo toan, uất ức cả một đời. Bà “đăm đăm” nhìn người đàn bà như nhìn người bạn sẽ đồng hành cùng mình trong cuộc đời khổ cực phía trước. Và từ đó, trong tâm hồn người mẹ ấy thức dậy bao ý nghĩ nhân đạo và sự hàm ơn: “Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con..”. Những lời độc thoại ấy như những đợt sóng cuộn trào, dâng ngập trong lòng người mẹ, vừa khắc khoải vừa dào dạt vừa bao la, đong đầy tình mẫu tử.

Suy nghĩ rất đỗi đời thường mà chan chứa đôn hậu, yêu thương của bà cụ Tứ khiến trái tim người đọc thổn thức. Hai chữ “mừng lòng” của bà lão nói với con: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Chữ “mừng” thật đắc địa, lột tả đúng cái thần thái của một tấm lòng vị tha cao quý đang vụng về giấu đi giọt nước mắt xót thương. Người mẹ già cố nuốt nước mắt vào trong, nén nỗi đau để an ủi các con. Bà chẳng muốn con buồn, chỉ mong con hạnh phúc. Kim Lân viết “mừng lòng” chứ không phải “vui lòng”, vì trong hoàn cảnh đói kém, bà chỉ có thể “mừng” vì con mình có vợ, chứ không thể “vui” khi phía trước là cả một giai đoạn đói khát.

Ta cũng không quên được cử chỉ ân cần của mẹ với con dâu: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Câu nói ấy xóa tan mọi khoảng cách giữa mẹ chồng – nàng dâu. Tình yêu thương, sự bao dung của người mẹ già đã xóa nhòa tất cả. “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót”, thấu hiểu nỗi lòng của đứa con dâu mới. Thấy người đàn bà chỉ “khẽ nhúc nhích” nhưng vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ, bà thấp giọng thân mật: “Kể có ra làm được ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo…”, lo lắng cho người con dâu mới, lo lắng cho hạnh phúc đôi trẻ. Bà nói tiếp: “Cố làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá“. Còn điều gì cao quý và thiêng liêng hơn tình mẹ. Kim Lân đã nung đốt lên trong tâm hồn chúng ta tình mẫu tử thiên liêng. Không có kì quan nào đẹp đẽ mà trường tồn bất tử hơn tình mẹ. Nghệ thuật xét đến cùng là “nâng đỡ tâm hồn con người”.

Lep-ton-xtoi khẳng định rằng tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu kết tinh nên tình cảm được hun đúc bằng tâm hồn người nghệ sĩ trước những rung cảm của cuộc đời. Trong nỗi lo lắng, băn khoăn về hạnh phúc lứa đôi, người mẹ ấy kẹp lại trong tình thương và khao khát hạnh phúc. Bà cụ “nghẹn lời không nói được nữa”, bao nhiêu nỗi lo lắng cứ tích tụ lại, nghẹn lại nơi cổ họng. Phó mặc cho cảm xúc làm chủ “nước mắt bà cứ chảy ròng ròng”. Nếu ở trên, Kim Lân miêu tả giọt nước mắt “rỉ xuống hai kẽ mắt kèm nhèm” để chỉ đường chảy của nó là thấm sâu, chảy ngược vào trong, thì ở đây nó đã tuôn trào thay cho bao cảm xúc suy tư. Những dòng nước mắt tuôn chạy “ròng ròng” như sự giải thoát của tâm trạng và cảm xúc. Bà khóc vì thương mình, cũng vì thương cho đứa con trai và nàng dâu mới. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là tiếng lòng hồn nhiên và hồn hậu nhất. Người mẹ ấy đã sống một đời trọn vẹn vì con, vì cháu mà hết lòng, hết sức.

Nếu ta đã từng xót xa hình ảnh cái đói trong “Một bữa no”, hay cái hình ảnh bế tắc của chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, hoặc ám ảnh cái dáng đi ngật ngưỡng của Chí Phèo trong trang viết của Nam Cao, ta mới thật sự ngỡ ngàng khi đọc văn của Kim Lân. Trong đau khổ, bất hạnh và tối tăm, Kim Lân vẫn nâng con người lên trong tình nhân ái. Hình ảnh bà cụ Tứ chính là ánh sáng le lói trong bóng tối của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía và cảm động hơn. Hình ảnh bà cụ Tứ mang thông điệp nhân bản hơn: Dù kề bên cái đói, cái chết, con người vẫn không bị mất đi vẻ đẹp bản chất lương thiện. Vẫn luôn khát khao hạnh phúc, vẫn không thôi mong ước về tương lai tươi sáng.

“Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung” (Leonid Leonov). Kim Lân đã khám phá và miêu tả nhân vật nhẹ nhàng, luồn lách ngòi bút vào tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người đọc phải cùng cười, cùng khóc với nhân vật. Chi tiết bữa cơm ngày đói cũng được dựng xây từ thứ ngôn từ chân phương mà Kim Lân có, nó quy tụ về làm bừng sáng cho trang văn. Kim Lân đã cho ra đời biết bao đứa con tinh thần viết về người nông thôn, nhưng với thứ ngôn từ ông dùng để nói về bữa cơm ngày đói chưa bao giờ là cũ. Bữa cơm đầu đón nàng dâu mới hiện lên thật thảm hại, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà lão còn cố gắng chắt những vốc cám cuối cùng để nấu “chè khoán” – cháo cám để mang đến sự bất ngờ cho các con, tuy đắng chát nhưng đó là món ăn mà “cả xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn”. Trong bữa ăn, bà lão “nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”, mở ra một viễn cảnh tương lai qua câu chuyện đàn gà. Giữa những ngày đói khát, bà nhắc chuyện toàn chuyện tương lai, và hình ảnh “đôi gà – đàn gà” như liều thuốc bổ tinh thần, lấn át cái đói, cái tăm tối. Câu chuyện ấy chính là tấm lòng người mẹ đang vun vén cho hạnh phúc mới của các con đấy!

Nhà văn đã miêu tả thật sâu sắc tâm lí ấy qua hệ thống ngôn ngữ giản dị nhưng giàu sức gợi, thể hiện qua từng lời nói, cử chỉ, hành động. Phải là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, thấu hiểu và cảm thông, yêu mến và trân trọng cuộc sống thì Kim Lân mới có thể viết nên những trang văn có sức lay động hồn người đến vậy.

Chúng ta sẽ nhớ mãi những trang văn viết về tình mẹ xúc động trong “Hòn đất” của Anh Đức, hay “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Đình Thi, và sẽ không thiếu đi hình bóng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Nhà văn đã thêm một lần khắc sâu trong tâm khảm mỗi người tình mẹ cao cả và thiêng liêng trong cái đói tối tăm, đã cứu vớt tâm hồn người, nâng con người lên bằng những sợi dây tình cảm đan dày. Ta thêm yêu những trang viết của Kim Lân để thêm một lần tìm về với cội nguồn dân tộc, tìm về với những bóng dáng người mẹ lầm lũi một đời.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *