Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ đích thực, không ngừng tìm kiếm cái đẹp. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là minh chứng cho hành trình ấy, nơi ông ca ngợi vẻ đẹp vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà.
I. Khái Quát Chung
Nguyễn Tuân khẳng định vị thế của mình ngay từ những tác phẩm đầu tiên, đặc biệt là ở thể loại tùy bút. “Người lái đò sông Đà” là một minh chứng tiêu biểu, thể hiện cái tôi tài hoa, uyên bác và tấm lòng yêu nước, yêu người sâu sắc của nhà văn.
Người lái đò sông Đà rút từ tập “Sông Đà” (1960), ra đời trong khí thế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tác phẩm ca ngợi sự thay đổi của thiên nhiên và con người Việt Nam, thể hiện tình yêu đất nước say đắm của Nguyễn Tuân.
Hai đoạn văn sau đây thể hiện công phu lao động nghệ thuật và sự tài hoa của Nguyễn Tuân trong việc tái tạo những nét đối lập mà thống nhất của thiên nhiên tạo hóa.
II. Nội Dung Phân Tích
1. Đoạn 1: Vẻ Đẹp Hùng Vĩ, Dữ Dội Của Sông Đà
Vị trí: Đây là phần đầu tác phẩm, tập trung khắc họa vẻ hung bạo của Sông Đà qua những vách đá, vực xoáy, luồng chết, đá ghềnh, sóng thác. Đoạn văn thể hiện rõ cá tính của dòng sông và ngòi bút tài hoa của tác giả khi miêu tả sinh động thác nước và đá Sông Đà.
1.1. Âm Thanh Nước Thác
Sông Đà hung bạo ở âm thanh tiếng nước: Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng điều khiển dàn giao hưởng, tạo nên bản hùng ca của gió, thác, sóng, đá. Ông nhìn Sông Đà như một người có cá tính, linh hồn và tâm trạng.
Tiếng nước thác sông Đà, ban đầu nghe như oán trách, van xin, rồi lại khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, thể hiện sự hung bạo tiềm tàng của dòng sông.
Từ xa, “còn xa lắm mới đến cái thác dưới” – khi chưa nhìn mà đã nghe thấy Sông Đà với muôn vàn giọng điệu. Ban đầu, “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…”. Âm thanh như được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên mạnh mẽ, man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa như đổ lửa,…đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Giọng điệu đa dạng, kì bí, không lặp lại của Sông Đà trong một khuôn nhạc dữ dội.
Phép nhân hóa, so sánh, những câu văn trùng điệp, liên hoàn, nhịp văn ngắn, tạo giọng văn dồn dập, gấp gáp, căng thẳng. Những từ ngữ cực tả trạng thái dữ dội gợi ấn tượng hãi hùng về sức hủy diệt khủng khiếp, kết hợp với liên tưởng phong phú. Đặc biệt là cách lấy lửa để tả nước, dùng rừng tả sông, lấy hình sắc để vẽ âm thanh.
Lại gần, khi chạm mặt, thác đã hiện ra trong câu văn ngắn “Tới cái thác rồi” – giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú. Nguyễn Tuân đồng thời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Tính từ “trắng xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, gió, bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước mờ đi trên mặt sóng, trên diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh “chân trời đá”, câu văn làm hiện ra sự hùng vĩ đến choáng ngợp của thác đá Sông Đà ngay trong ấn tượng đầu tiên khi gặp mặt.
1.2. Thạch Trận Bờ Sông
Sông Đà “bày thạch trận trên sông”, thể hiện mưu kế, sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri.
Thạch trận sông Đà được ví như một trận đồ bát quái, sẵn sàng nhấn chìm bất cứ con thuyền nào dám xâm phạm.
Đá Sông Đà bày thạch trận trên sông như một trận đồ bát quái dìm bắt bất cứ con thuyền nào qua đó. Những tảng đá ngầm dưới lòng sông luôn chờ chực tiêu diệt người lái đò “Cả một chân trời đá, đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông…mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy, vồ lấy thuyền”. Sử dụng thuật ngữ quân sự, trên cơ sở những quan sát thực tế, Nguyễn Tuân gợi dậy cái bí ẩn, hiểm ác của đá Sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi “ngàn năm vẫn mai phục”, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để “nhổm cả dậy, vồ lấy thuyền”.
Thạch trận không chỉ hung hãn mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm, xảo quyệt: “mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó”. Những hòn đá vô tri mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại hung dữ, chúng giở mọi thủ đoạn, mưu ma chước quỷ để dẫn dụ, phục kích.
2. Đoạn 2: Vẻ Đẹp Thơ Mộng, Trữ Tình Của Sông Đà
Vị trí: Đây là phần sau của tác phẩm, tập trung khắc họa vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông Tây Bắc qua việc miêu tả nét gợi cảm của sông Đà. Đoạn văn thể hiện rõ vẻ đẹp riêng biệt của dòng sông và ngòi bút tài hoa của tác giả.
Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ xa nhớ gần yêu, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kính, xưa cũ của Đường thi.
Đoạn văn tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc để miêu tả dòng sông Đà gợi cảm và bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của một người chưa ra tới cửa rừng, mới chỉ nhìn thấy dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, vội vàng, khao khát.
Sông Đà hiện lên như một người bạn tri kỷ, gợi cảm, thân thương và đầy ắp kỷ niệm.
Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng làm xao xuyến những tâm hồn chưa hề nguôi nỗi tiếc nuối, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian, mà như còn tha thiết trong dòng thời gian miên viễn xa xăm của Đường thi.
Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Hai chữ “sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang, tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông.
Cảm xúc gặp lại sông Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ thú vị: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt, “giòn tan” là chính từ thường chỉ đặc điểm sắc thái của những vật thể mỏng manh dễ vỡ. Nắng “giòn tan” là một ẩn dụ đẹp gợi tả cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa quý giá, nó tương phản hoàn toàn với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày “mưa dầm”, giúp người đọc dễ dàng hình dung cảm giác trìu mến, nâng niu của nhà văn khi gặp lại con sông.
Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, một tri âm với bao kỷ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kỳ.
III. Kết Luận
Qua “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã tái hiện một dòng sông vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa trữ tình, thơ mộng. Hai đoạn văn tiêu biểu cho thấy tài năng viết văn của ông, đua tài với vẻ đẹp tạo hóa, của thiên nhiên và con người. Sông Đà trong văn chương Nguyễn Tuân vừa là Sông Đà hiện thực, vừa là Sông Đà nghệ thuật mang tình yêu của Nguyễn Tuân.