Nguyễn Tuân, “người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật,” đã tạo nên một cuộc hội ngộ kỳ diệu trong “Chữ người tử tù.” Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện mà còn là sự gặp gỡ của những nhân cách cao đẹp, những con người biết trân trọng và tạo ra cái đẹp ngay trong hoàn cảnh tăm tối của nhà tù.
Ai đó từng nhận xét rằng, “suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân”. Quả vậy, cái đẹp trong “Chữ người tử tù” được phát lộ một cách khác thường, đặc biệt qua cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Ngục quan, người nắm giữ uy quyền, lại âm thầm ngưỡng mộ Huấn Cao, người tử tù nổi tiếng với tài hoa và khí phách. Đây là một cuộc gặp gỡ đặc biệt, chưa từng có giữa một tù nhân và người đại diện cho pháp luật. Tuy nhiên, trong địa hạt của cái đẹp, họ là những nhân cách đồng điệu, cùng nhau sinh thành và nuôi dưỡng cái đẹp. “Chữ người tử tù” là cuộc hội ngộ của những nhân cách cao đẹp bị cầm tù bởi bạo lực và hoàn cảnh, hiện thân cho cái đẹp trong cuộc sống.
Người thai nghén cái đẹp trong tác phẩm không ai khác chính là Huấn Cao, người “viết chữ rất nhanh, rất đẹp” và “có chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Tiếng thơm của người nghệ sĩ được ca ngợi qua sự ngưỡng mộ của quản ngục.
Ngợi ca tài hoa của Huấn Cao và coi những con chữ của ông là vô giá, Nguyễn Tuân thể hiện lòng yêu quý cái đẹp và trân trọng văn hóa cổ truyền dân tộc. Huấn Cao không chỉ phát lộ cái đẹp của thiên lương mà còn tỏa sáng vẻ đẹp rạng ngời của người anh hùng. Dù trong hoàn cảnh tù ngục, khí phách của ông không hề nguội lạnh. Ông dám chống lại triều đình phong kiến, coi thường bọn lính canh và thái độ cao ngạo trước sự biệt đãi của quản ngục. Đây là lời thách thức với cường quyền bạo lực. Khi ngục quan khép nép hỏi, “Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp,” Huấn Cao đáp: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Lời nói ấy như một gáo nước lạnh nhưng lại khiến quản ngục thêm kính nể. Đó là khí phách của một trang nam nhi.
Cách hành xử của Huấn Cao cho thấy dù ở trong hoàn cảnh nào, ông vẫn hoàn toàn tự do về nhân cách. Sự lễ phép của viên quản ngục càng tô đậm tầm vóc kỳ vĩ và vẻ đẹp hiên ngang của Huấn Cao. Ông không vì quyền thế hay tiền bạc mà ép mình cho chữ. Cả đời ông chỉ cho chữ ba người bạn thân. Nhưng khi biết được tấm lòng của người quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi: “Nào ta có biết đâu, một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.”
Huấn Cao đã nắm bắt và nâng đỡ ánh sáng của thiên lương. Việc cho chữ là “một tấm lòng ta đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ,” là hành động đền đáp một tấm lòng cao đẹp. Huấn Cao chính là sự hiện diện của cái đẹp toàn diện, “sự tỏa sáng của những tấm lòng” xuyên suốt “Chữ người tử tù”. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, Huấn Cao trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp thiêng liêng, tao nhã của nền văn hóa cổ truyền, kết tinh tinh hoa dân tộc. Nguyễn Tuân bày tỏ lòng yêu mến và tiếc nuối những con người như Huấn Cao, đồng thời thể hiện quan niệm thẩm mỹ tiến bộ: cái đẹp và cái thiện luôn song hành và làm nên nhân cách con người.
Đằng sau sự tài hoa của Huấn Cao, nhân vật quản ngục xuất hiện như hiện thân của niềm say mê và trân trọng cái đẹp. Đó như một phép màu kỳ diệu biến quản ngục thành “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”.
Tâm nguyện cả đời của quản ngục là có được chữ của ông Huấn để treo ở nhà riêng. Tâm nguyện ấy biến viên quản ngục thành một người nghệ sĩ thực thụ, biết say mê và hướng về cái đẹp. Quản ngục biệt đãi Huấn Cao, luôn cung kính và lễ phép trước thái độ kiêu ngạo của ông. Chính điều đó đã mở đường cho quản ngục đến với cái đẹp. Tư thế khúm núm, thái độ và hành động có vẻ ủy mị khi lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách của ngục quan, khiến nhân vật trở nên đáng quý và trân trọng. Đặc biệt, ông còn cúi đầu thành kính đón nhận lời khuyên của ông Huấn. Hành động này không hề khiến ông trở nên hèn kém mà trái lại, nó còn làm cho ông trở nên cao thượng hơn bao giờ hết. Cái cúi đầu của quản ngục thật cao đẹp, chẳng khác nào cái cúi đầu của Cao Bá Quát khi xưa: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (Cả đời sinh ra chỉ để cúi đầu trước hoa mai).
Nếu Huấn Cao là nơi nhà văn gửi gắm những quan niệm thẩm mỹ tiến bộ thì quản ngục là nơi nhà văn gửi những quan niệm nhân sinh sâu sắc: Bản thân mỗi con người luôn khao khát và hướng về cái đẹp. Bởi vậy, phải biết nhìn sâu vào tâm hồn con người để nắm bắt ánh sáng của thiên lương. Hơn cả, cái đẹp “man mác khắp vũ trụ,” nó tồn tại ngay cả trong cái ác để đẩy lùi bóng tối, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn.
Cảnh tượng đẹp nhất trong “Chữ người tử tù” chính là cảnh cho chữ, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đặc biệt là trong hoàn cảnh đề lao, nơi “người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc.” Cái đẹp vẫn ngang nhiên được sinh thành. Ta ngỡ ngàng khi thấy “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm to nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Bóng tối của nhà tù thực dân đã bị đẩy lùi bởi ánh sáng của tài hoa và thiên lương, nhường chỗ cho cái đẹp được sinh thành. Cái đẹp đã trở thành tác nhân làm đảo lộn ý thức xã hội, nó được khai sinh trên một mảnh đất chết, từ bàn tay của người tử tù sắp chết nhưng vẫn phát lộ rực rỡ và có sức cảm hóa mãnh liệt. Lời khuyên của quản ngục dành cho người tử tù đã thể hiện một quan niệm sâu sắc về nghệ thuật: Cái đẹp không bao giờ chung sống với cái ác, mãi mãi là như vậy. Đó cũng là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân về sức mạnh của cái đẹp, cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới này!
Nguyễn Tuân đã sử dụng bút pháp tương phản để dựng lên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, tô đậm sự thắng thế của cái đẹp trong cuộc đời. Ông khéo léo sử dụng những từ Hán Việt để tạo màu sắc cổ kính, trang nghiêm cho tác phẩm, biến “Chữ người tử tù” thành một trong những “nén tâm hương nguyện cầu cho cái đẹp cổ truyền Việt Nam.” Câu chuyện như một thước phim quay chậm, người đọc như được chứng kiến tận mắt ánh sáng được nhen lên, tỏa sáng và che đi bóng tối. Các nét chữ hiện hình “như một nét bút trác tuyệt được chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn từ”.