Nguyễn Khuyến, nhà thơ trào phúng bậc thầy của văn học Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu sắc qua những vần thơ thâm thúy, kín đáo mà đầy sức đả kích. Trong số đó, “Hội Tây” nổi bật như một minh chứng cho tài năng trào phúng đỉnh cao của ông. Bài thơ không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đương thời mà còn thể hiện lòng yêu nước thầm kín, nỗi xót xa trước cảnh đồng bào đánh mất bản sắc văn hóa.
“Hội Tây” là một tác phẩm thất ngôn bát cú hoàn chỉnh, từ cấu tứ đến nội dung. Ngay từ câu mở đầu, tác giả đã giới thiệu một sự kiện náo nhiệt, được gọi một cách dân dã là “hội Tây”:
“Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo”
“Hội Thăng Bình” được tổ chức bởi các quan chức người Pháp tại Thăng Bình. Trong thời gian giữ chức Bố Chánh ở Quảng Nam, Nguyễn Khuyến đã có cơ hội trực tiếp chứng kiến những lễ hội tương tự. Một số ý kiến cho rằng, “hội Thăng Bình” này có thể là lễ kỷ niệm Cách mạng Pháp do người Pháp tổ chức tại Hà Nội, nhằm chia sẻ niềm vui với người dân An Nam. Dù hiểu theo cách nào, lễ hội được nhắc đến chắc chắn không phải là một sự kiện truyền thống của người Việt.
Hình ảnh pháo hoa rực rỡ tượng trưng cho sự phô trương hình thức của “Hội Thăng Bình”, che đậy mục đích thực dân.
“Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.”
Không khí lễ hội trở nên náo nhiệt hơn với “cờ kéo” và “đèn treo”, những vật trang trí mang đậm phong cách phương Tây. Sự xuất hiện của chúng càng khẳng định đây là một lễ hội của người Pháp, không phải của người Việt. Dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến, lễ hội hiện lên vừa sống động vừa kỳ quặc. Dù là “hội Tây”, các trò chơi vẫn mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam như hát chèo, đánh đu, bơi lội, leo cột. Tuy nhiên, cách miêu tả các trò chơi lại rất khác lạ. Nhà thơ sử dụng nhiều tính từ gợi hình, gợi cảm, giúp người đọc hình dung rõ hơn về lễ hội. Những “bà quan” vốn sang trọng, quý phái lại được miêu tả với dáng vẻ “tênh nghếch”, thiếu duyên dáng. Việc các mệnh phụ phu nhân quyền quý tụ tập xem bơi lội là một hành động không phù hợp với xã hội phong kiến đương thời. Trong sân hát chèo, nơi diễn ra các buổi biểu diễn nghệ thuật truyền thống, lại có những “thằng bé” phải “lom khom” nghe hát. Câu hỏi đặt ra là tại sao chúng lại phải “lom khom”? Có lẽ vì các quan Tây, các phú ông, phú bà đã chiếm hết chỗ ngồi, khiến chúng phải đứng hầu và tranh thủ nghe hát. Trò chơi đánh đu quen thuộc cũng xuất hiện trong lễ hội. Động tác của người chơi được khắc họa bằng từ “cậy sức”, khiến trò chơi vốn mang đến không khí vui tươi, tràn đầy sức sống bỗng trở nên thô thiển. Còn các anh thì hớn hở trèo lên cột mỡ vì tiền treo trên ngọn cây. Tính từ “tham” được đặt ở đầu câu, nhấn mạnh động cơ của người tham gia. Tất cả tạo nên một bầu không khí hỗn loạn, nhốn nháo.
Bức ảnh châm biếm sự kệch cỡm, lố lăng của tầng lớp quan lại khi bắt chước lối sống phương Tây, đánh mất bản sắc dân tộc.
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”
Lễ hội vui vẻ, nhộn nhịp đó được khen là “khéo vẽ trò”. Cụm từ này khẳng định tính chất mua vui, giải trí của lễ hội theo hướng tiêu cực. “Vẽ trò” thường được dùng để chỉ những sự kiện được tổ chức rầm rộ, cầu kỳ nhưng vô nghĩa. “Hội Tây” trong bài thơ này cũng vậy. Người Tây tổ chức lễ hội để mua vui cho chính họ, và những người dân An Nam vì “tham tiền”, ham vui mà đánh đổi danh dự, nhân phẩm. Những trò chơi dân gian truyền thống như hát chèo, leo cột, đánh đu bị đem ra làm trò mua vui cho những kẻ xâm lược. Những nét văn hóa đặc sắc, niềm tự hào của dân tộc bị lợi dụng để làm trò cười cho thực dân Pháp. Vậy mà những người dân vẫn nhiệt tình tham gia, phô bày dáng vẻ kệch cỡm, kém duyên để mua vui cho chúng. Càng vui bao nhiêu thì càng nhục bấy nhiêu. Cặp quan hệ từ tăng tiến “bao nhiêu – bấy nhiêu” thể hiện sự phẫn uất của nhà thơ khi chứng kiến đồng bào mình đánh mất lòng tự trọng, tự biến mình thành trò cười cho kẻ ngoại bang. Tinh thần tự tôn dân tộc bị chà đạp dưới những đồng tiền bẩn thỉu. Dường như chẳng ai nhận ra thực tế ê chề đang diễn ra trước mắt.
Hình ảnh leo cột mỡ tượng trưng cho sự tha hóa về đạo đức, khi người dân bất chấp sĩ diện để kiếm tiền, trở thành công cụ mua vui cho thực dân.
Ngay từ nhan đề “Hội Tây”, Nguyễn Khuyến đã nhấn mạnh chủ quyền của ngày hội. Ông phân biệt rõ ràng đây là hội của người Tây, không phải hội của ta. Qua những vần thơ tả thực, tác giả đã châm biếm sâu cay về sự hăng hái đến quên mình của người dân khi tham gia “hội người”. Từ đó, ông vạch trần tấm màn che đậy sự giả dối nhân danh quyền con người của thực dân Pháp. Khi chúng biến người dân An Nam thành trò mua vui, chúng đã không hề xem họ là con người, không hề đối xử bình đẳng với họ. Đó cũng là lời cảnh tỉnh đanh thép cho những ai đã tự biến mình thành trò hề, thức tỉnh lương tri và lòng tự tôn dân tộc. Đó chính là ý nghĩa sâu xa mà Nguyễn Khuyến muốn gửi gắm qua những vần thơ trào phúng trong “Hội Tây”.