Nguyễn Khuyến, nhà thơ trào phúng bậc thầy, đã khắc họa bức tranh xã hội Việt Nam thời thuộc địa nửa phong kiến đầy lố lăng qua hình tượng “ông Nghè Giấy”. Bài thơ “Tiến sĩ giấy” không chỉ là tiếng cười châm biếm mà còn là lời than thở cho một thời đại suy vong, khi giá trị tri thức bị đảo lộn.
Xã hội Việt Nam thời Nguyễn Khuyến chứng kiến sự suy đồi của nền Nho học và khoa cử. Học vị tiến sĩ, vốn là biểu tượng của vinh quang và tài năng, nay trở nên rẻ rúng, có thể mua bán đổi chác. Những kẻ “hữu danh vô thực” xuất hiện ngày càng nhiều, trong khi người thực tài lại bất lực trước thời cuộc.
Hình tượng “ông nghè tháng Tám” trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa. Thoạt nhìn, đó là hình ảnh đồ chơi dân gian, gợi nhắc về truyền thống hiếu học và ước vọng vinh quy. Nhưng qua ngòi bút trào phúng của Nguyễn Khuyến, “ông nghè giấy” trở thành biểu tượng cho sự giả dối, rỗng tuếch của học vị tiến sĩ thời bấy giờ.
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Điệp từ “cũng” được sử dụng liên tiếp gợi sự giả tạo, bắt chước, khiến người đọc nghi ngờ về giá trị thực chất của “ông nghè”. Những vật phẩm vinh quy như cờ, biển, cân đai, lọng xanh trở nên vô nghĩa khi gắn liền với một hình nộm bằng giấy.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Hai câu thơ đối nhau đầy châm biếm, lột tả sự tương phản giữa hình thức và nội dung. “Thân giáp bảng” cao quý được tạo nên từ “mảnh giấy” rẻ mạt, “mặt văn khôi” tài giỏi chỉ là “nét son” hời hợt. Nguyễn Khuyến đã khéo léo hạ bệ những giá trị ảo, phơi bày sự thật trần trụi về những “ông nghè” rỗng tuếch.
Sự gian nan của con đường khoa cử xưa kia càng làm nổi bật sự dễ dãi, tầm thường của việc tạo ra một “ông nghè giấy”. Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh “ông tiến sĩ giấy” để mỉa mai những “ông tiến sĩ thật” đương thời, vạch trần sự giả dối, rỗng tuếch bên trong lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Hai câu luận thể hiện sự chua xót, ngậm ngùi của nhà thơ trước sự xuống cấp của giá trị tri thức. “Tấm thân xiêm áo” vốn là biểu tượng của trách nhiệm nặng nề, nay lại trở nên nhẹ bẫng vì chỉ là đồ giả. Cái “giá khoa danh” cao quý xưa kia nay trở nên rẻ rúng, “hời” hợt.
Sự tha hóa của giới quan lại và nền chính trị đương thời cũng góp phần làm nên bi kịch của “ông nghè giấy”. Những kẻ “ghế chéo lọng xanh” ngồi “bảnh choẹ” thực chất chỉ là những con rối trong tay bè lũ thực dân cướp nước.
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Câu kết bài thơ như một đòn hạ bệ chí mạng, lột trần bản chất “đồ chơi” của “ông nghè giấy”. Hình ảnh “ghế chéo lọng xanh” oai vệ hóa ra chỉ là cái vẻ bề ngoài giả dối, che đậy sự thật về một kẻ “chịu để kẻ khác giật dây”.
Nguyễn Khuyến đã sử dụng ngôn ngữ đời thường, đưa chất văn xuôi vào thơ Đường luật, tạo nên giọng điệu trào phúng gần gũi, sâu cay. Cái hài hước trong thơ ông không chỉ đơn thuần là tiếng cười mà còn ẩn chứa nỗi buồn, sự xót xa cho một thời đại suy vong.
“Tiến sĩ giấy” không chỉ là lời mỉa mai xã hội đương thời mà còn là tiếng nói tự trào của chính Nguyễn Khuyến. Ông tự ý thức được tình trạng bi hài của mình, nhận ra sự bất lực của bản thân trước thực tế lịch sử.
Tính tự trào trong thơ Nguyễn Khuyến thể hiện sự phản tỉnh sâu sắc của một trí thức trước thời cuộc. Ông không chỉ phê phán cái giả Nho, cái vô dụng mà còn khẳng định cái chân Nho, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
“Tiến sĩ giấy” là hình tượng điển hình cho những kẻ “hữu danh vô thực” trong mọi thời đại. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa nhất thời mà còn mang giá trị phổ quát, phản ánh một hiện tượng xã hội vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Giá trị sáng tạo và sức sống bền bỉ của “Tiến sĩ giấy” đã khẳng định tài năng và vị thế của Nguyễn Khuyến trong văn học Việt Nam. Bài thơ là một minh chứng cho sự kết hợp hài hòa giữa trào phúng và trữ tình, giữa tiếng cười và nỗi buồn, giữa cái bi và cái hài.