“Sư đoàn không vận,” niềm tự hào của quân đội Mỹ với 15.000 binh sĩ, 450 máy bay trực thăng cùng vũ khí tối tân, được kỳ vọng nghiền nát lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Nhưng thực tế chiến trường phơi bày một sự thật khác.
Tại trận Plâyme (tháng 11/1965), sư đoàn này hứng chịu đòn giáng sấm sét từ Quân Giải phóng, khiến hơn 1.700 lính Mỹ bỏ mạng. Hãng tin AFP thừa nhận, hơn 40% quân số Mỹ tham chiến bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Những người lính Mỹ sống sót sau trận đánh được mô tả trong tình trạng thảm hại: ngơ ngác, thất vọng, rệu rã, hoảng loạn. Râu ria xồm xoàm, quần áo tả tơi, họ hoảng sợ kể lại việc bị tấn công từ mọi hướng.
Đại tá Môơ, chỉ huy tiểu đoàn số 7, gục khóc khi chứng kiến quân lính của mình chết gần hết trên sườn đồi.
Tướng Vétmòlên thừa nhận số thương vong của lính Mỹ trong trận này vượt quá mọi trận trước đó. Nhưng trớ trêu thay, ông ta lại “cười một cách hồ hởi” khi đánh giá lại trận đánh và tuyên bố đó là một “thắng lợi chưa từng có.” Nụ cười Nhăn Răng đầy gượng gạo không thể che giấu thất bại thảm hại.
Có hai vấn đề then chốt:
Lính Mỹ được trang bị đến tận răng, từ vũ khí hiện đại đến kẹo cao su. Thế nhưng, họ thiếu đi thứ vũ khí quan trọng nhất: tinh thần chiến đấu. Ban đầu, họ kiêu ngạo gọi chiến sĩ ta là “gà con,” tự xưng là “chim cắt.”
Nhưng sau khi nếm trải những đòn tấn công bất ngờ từ “gà con,” sự kiêu ngạo biến thành nỗi kinh hoàng. Họ sợ du kích, sợ bộ đội giải phóng, sợ cả cụ già, em bé, vì tất cả đều là “Việt cộng.” Nỗi sợ lan rộng, bao trùm cả chông, nỏ, rắn rết, ong đốt, mưa nắng… Thậm chí, họ còn khiếp sợ cả… muỗi anôphen, thủ phạm gây ra những cơn sốt rét rừng quật ngã hàng nghìn lính Mỹ.
Số lính ốm và bị thương gia tăng chóng mặt, buộc Mỹ phải mở thêm bệnh viện dã chiến ở Nhật Bản và Philippines.
Xác lính Mỹ được âm thầm đưa về nước. Đội “đăng ký mồ mả lính” làm việc hết công suất. Nghị sĩ Moxơ cay đắng nhận xét: Càng nhiều lính Mỹ sang Việt Nam, càng nhiều quan tài trở về Mỹ.
Để bù đắp cho số lượng binh lính thiệt mạng và bị thương quá lớn, chính phủ Mỹ bắt lính cả những thanh niên nước ngoài đang sinh sống tại Mỹ, những thanh niên mới cưới vợ, những người không đủ tiêu chuẩn sức khỏe. Thậm chí, có người còn đề xuất thả tội phạm và đưa chúng sang Việt Nam!
Phong trào phản đối chiến tranh và chống bắt lính lan rộng trong giới trẻ Mỹ. Nghị sĩ Gruninh chua xót nói: “Lính Mỹ chết không phải vì đất nước Hoa Kỳ, mà vì sự ngu xuẩn của người khác.”
Bọn tướng lĩnh Mỹ có tài biến bại trận thành thắng trận.
Ví dụ, ngày 17/9/1965, Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ công bố chỉ mất 100 máy bay bị bắn rơi ở miền Bắc từ tháng 2/1965. Nhưng thực tế, ta đã bắn tan xác 567 chiếc. Từ ngày 18/11/1965, họ im bặt về số lượng máy bay bị bắn rơi.
Trong trận Plâyme, Chưpông, Iađrăng, 1.700 lính Mỹ bị tiêu diệt, nhưng Mỹ chỉ thừa nhận 248 người chết và 527 người bị thương.
Tuy nhiên, sự thật không thể che giấu. Họ buộc phải thừa nhận số lính Mỹ chết trong một tuần (14-20/11/1965) nhiều hơn số lính Mỹ chết trong cả bốn năm (1961-1964) cộng lại.
Tháng 11/1965, nghị sĩ Xtatơn nghi ngờ con số thương vong mà chính phủ công bố và cho rằng con số thực tế cao hơn nhiều.
Từ khi xâm lược miền Nam, giặc Mỹ luôn khoe khoang “thắng lợi.” Nhưng “thúng không úp được voi.” Thế giới biết rằng 4/5 đất đai và 2/3 dân số miền Nam đã được giải phóng. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mặtnạmara, kẻ dối trá, từng tuyên bố miền Nam sẽ “bình định” xong vào cuối năm 1965 và lính Mỹ sẽ được rút về nước. Nhưng đến cuối năm 1965, không những lính Mỹ cũ không được về nước mà số lính mới còn tăng gấp mười mấy lần.
Mặtnạmara buộc phải thừa nhận: “Nhờ tăng thêm quân, Mỹ sẽ không thua nữa.” Lời thú nhận muộn màng cho thấy Mỹ đã thua, ta đã thắng. Nụ nhăn răng của những kẻ xâm lược không thể che giấu sự thật phũ phàng về một cuộc chiến phi nghĩa.