Bài thơ Nguyên tiêu là một trong những tác phẩm nổi bật trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp gian khổ tại chiến khu Việt Bắc. Cùng với Báo tiệp, Thu dạ, Nguyên tiêu thể hiện tinh thần lạc quan và tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Bác. Sau chiến thắng Việt Bắc năm 1947, quân và dân ta tiếp tục giành thắng lợi trên đường số 4 vào xuân hè năm 1948. Giữa không khí hân hoan đó, bài thơ Nguyên tiêu xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đóa hoa xuân rực rỡ, ngát hương.
Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt được Xuân Thủy dịch sang tiếng Việt như sau:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Đêm rằm tháng giêng, trăng sáng vằng vặc trên bầu trời bao la. Bài thơ thể hiện cảm xúc dạt dào và niềm vui trong tâm hồn lãnh tụ vào một đêm nguyên tiêu lịch sử. Hai câu đầu phác họa một khung cảnh tuyệt đẹp: vầng trăng tròn đầy (nguyệt chính viên) tỏa sáng. Trăng rằm tháng giêng mang một vẻ đẹp tươi mới lạ thường bởi mùa xuân làm cho trăng thêm phần rực rỡ. Trăng cũng tô điểm thêm vẻ hữu tình cho cảnh vật. Đất nước quê hương hiện lên với một màu xanh bao la, bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”, màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” nối liền với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba chữ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc, làm nổi bật cái “thần” của sông, nước và bầu trời.
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp tươi xinh, gợi tả mùa xuân của sông nước, đất trời. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dạt dào một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu mà còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một tâm hồn rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, khi đất nước đang anh dũng kháng chiến. Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Tình yêu thiên nhiên ấy thể hiện qua những hình ảnh sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”, có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui chiến thắng. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu / Phê văn hoá núi ghé nghiên soi”; yêu ngọn núi, chim rừng báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc điệu trữ tình và màu sắc cổ điển.
Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Nếu như ánh trăng năm xưa (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì trăng nguyên tiêu năm 1948 lại soi xuống con thuyền, nơi Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hy vọng, bao tình cảm nồng hậu. Trường hợp thưởng trăng này không diễn ra bình thường ở sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”, mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la!
Người thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách tao nhân mặc khách, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo, làm cho bài thơ Nguyên tiêu mang phong vị Đường thi. Ba chữ “đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại. Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền của vị thống soái, con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:
Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền.
“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, gợi nhớ đến những vần thơ hoa lệ của các thi nhân xưa.
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ, đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Qua bài thơ Nguyên tiêu, ta thấy trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Vầng trăng ấy thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.
Nguyên tiêu được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, mang đậm phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của một bài thơ cổ: con thuyền, vầng trăng, sông xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ, không gian bao la, yên tĩnh… Điểm khác biệt là giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”. Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.
Văn là người. Thơ là tiếng lòng cộng hưởng từ một người đến với muôn người. Thơ Bác Hồ dù nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt…” nhưng phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác vẫn hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp.
Nguyên tiêu là một bài thơ trăng tuyệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.