Dấu Chân Người Nguyên Thủy Trên Đảo Cát Bà: Hành Trình Về Thiên Đường Tiền Sử

Cát Bà, hòn đảo ngọc của Vịnh Bắc Bộ, không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ mà còn là một kho tàng khảo cổ học vô giá, minh chứng cho sự hiện diện của Người Nguyên Thủy từ rất sớm. Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy Cát Bà là một trong những địa điểm cư trú đầu tiên của con người, với những dấu tích có niên đại hàng chục nghìn năm.

Khoảng 17.000 – 9.000 năm trước, khi mực nước biển dâng cao, hệ thống đảo trong Vịnh Bắc Bộ bị tách biệt khỏi đất liền. Chính trong giai đoạn này, người nguyên thủy, thuộc nền văn hóa Hòa Bình, đã tìm đến những hang động đá vôi ở khu vực Hạ Long – Cát Bà làm nơi sinh sống. Các nhà khảo cổ học gọi họ là cư dân văn hóa Hòa Bình, hoặc văn hóa Soi Nhụ, theo tên một di chỉ khảo cổ được phát hiện ở Vịnh Hạ Long.

Trên quần đảo Cát Bà, các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu tích của người nguyên thủy trong 67 hang động khác nhau, bao gồm: Áng Giữa, Tiền Đức, hang Giếng Ngóe, cụm hang Áng Mả và Mái đá Ông Bẩy. Những di chỉ này cho thấy sự tương đồng về văn hóa vật chất với các di chỉ văn hóa Hòa Bình trên đất liền và di chỉ Soi Nhụ ở Vịnh Hạ Long.

Người nguyên thủy Hòa Bình sống trong môi trường lục địa và khai thác ốc nước ngọt làm nguồn thức ăn. Các di chỉ ở Cát Bà cho thấy sự khan hiếm của công cụ đá, thay vào đó là sự phổ biến của công cụ cuội mài lưỡi và công cụ cuội hình đĩa, được chế tạo từ những mảnh cuội bổ kiểu Hòa Bình – Bắc Sơn. Ngoài ra, còn có sự xuất hiện của công cụ làm từ đá vôi bản địa. Các di chỉ văn hóa Hòa Bình ở Cát Bà thường có tầng văn hóa mỏng và chỉ có một tầng văn hóa, cho thấy thời gian cư trú không kéo dài.

Kết quả xác định niên đại bằng phương pháp C14 trên mẫu ốc nước ngọt từ hang Áng Mả và Mái đá Ông Bẩy cho thấy văn hóa Hòa Bình ở Cát Bà tồn tại từ 25.000 đến 15.000 năm trước. Các công cụ cuội mài tìm thấy trong hang Eo Bùa có niên đại muộn hơn, có thể tương đương với di tích Eo Bùa, kéo dài đến khoảng 10.000 năm trước, thậm chí gần với di chỉ Cái Bèo. Các nhà khảo cổ cho rằng một bộ phận người nguyên thủy Hòa Bình đã dần tiến ra biển, sinh sống trong hang động núi đá vôi và tạo ra những trầm tích văn hóa đầy vỏ ốc với công cụ lao động đặc trưng là rìu ngắn kiểu Hòa Bình, nạo hình đĩa.

Những dấu tích này chứng minh rằng lớp cư dân cư trú trên quần đảo Cát Bà và vùng ven biển Đông Bắc trong giai đoạn muộn của văn hóa Hòa Bình chính là tổ tiên của cư dân thuộc nền văn hóa Hạ Long và Cái Bèo sau này. Các di chỉ văn hóa Hòa Bình ở Cát Bà còn lưu giữ những dấu vết chắc chắn của việc sử dụng lửa, như bếp than tro, xương thú bị thui, và đá ám khói đen. Những đống vỏ ốc nước ngọt bị chọc thủng, xương thú bị chặt, bị đập cho thấy người nguyên thủy ở đây đã biết hái lượm và săn bắt.

Khi đường bờ biển hình thành gần giống như ngày nay, khoảng 7.000 – 5.000 năm trước, người nguyên thủy ở vùng biển Đông Bắc đã có những thay đổi lớn về cách sống. Họ từ bỏ hang động để ra ngoài bãi biển. Sự thay đổi này được coi là một cuộc cách mạng kinh tế trong thời tiền sử ở Cát Bà, thể hiện rõ trong các di chỉ khảo cổ Cái Bèo, Ao Cối, và mái đá Vạ Bạc. Nghiên cứu di chỉ Cái Bèo cho thấy đây là một làng chài cổ lớn, nơi cư dân đã thành thạo nghề đánh cá biển ở các cửa sông và vụng biển quanh vùng.

Người nguyên thủy Cái Bèo đã đánh bắt được nhiều loài cá lớn như cá sạo, cá úc, cá hồng ngự (sống ở nước mặn, biển nông) và cá nhám, cá đao (sống ở biển sâu). Nghiên cứu đốt sống xương cá trong các di chỉ Cái Bèo, Ao Cối, Xé Bạc cho thấy họ đã bắt được nhiều cá lớn, có con nặng tới vài tạ. Điều này chứng tỏ họ có trình độ đi biển và đánh bắt cá rất cao. Niên đại của làng cổ Cái Bèo được xác định bằng phương pháp C14 là khoảng 6475+-205 năm và 5645+-115 năm trước.

Di chỉ Cái Bèo và Ao Cối đều có địa tầng dày (hơn 2m), cho thấy người nguyên thủy chủ yếu sống ngoài trời, biết đi biển đánh cá, khai thác thức ăn rừng, chặt cây làm nhà, làm thuyền, và chế tạo đồ gốm. Công cụ lao động chủ yếu là rìu kiểu Xumatra (cuội tròn hoặc bầu dục, được ghè đẽo ở hai mặt hoặc một mặt), rìu ngắn, rìu dài, nạo, chày và bàn nghiền, bàn mài bằng đá, lao đá, đồ gốm thô có vết nan tre và hoa văn vặn thừng, chì lưới bằng đá.

Phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng hái lượm và đánh cá là nguồn sống chính của người nguyên thủy Cái Bèo. Dựa vào số lượng chày và bàn nghiền, có thể đoán rằng ngũ cốc cũng là một loại lương thực quan trọng, nhưng chưa có bằng chứng chắc chắn về nông nghiệp. Dấu vết của ngành đánh cá thì khá nổi bật ở di chỉ Cái Bèo, Ao Cối, mái đá Xé Bạc. Di chỉ Bãi Bến có niên đại khoảng 3.400-3.900 năm trước.

Người nguyên thủy Bãi Bến đã biết sử dụng kỹ thuật cưa, khoan, tiện đá để chế tạo công cụ đá đẹp và tốt hơn. Tất cả các chế phẩm tìm thấy ở Bãi Bến đều nhẵn nhụi, có hình thù chính xác và đẹp. Mô hình kinh tế biển ở các di chỉ văn hóa Hạ Long trên Cát Bà không rõ ràng như giai đoạn trước: ít xương cá, vỏ sò.

Có lẽ, đánh cá không còn là ngành kinh tế quan trọng, bên cạnh săn bắn, hái lượm, trồng trọt và chăn nuôi đã trở thành nguồn sống chủ yếu của người nguyên thủy Bãi Bến. Tại các di chỉ văn hóa Hạ Long ở Cát Bà, đã tìm thấy dấu vết của nghề dệt, kỹ thuật luyện kim, công cụ đá được lắp vào cán gỗ vững vàng và tiện lợi hơn, kỹ nghệ đồ gốm có bước tiến vượt bậc (nặn bằng bàn xoay và nung trong lò). Các di chỉ văn hóa Hạ Long cho thấy người nguyên thủy thời kỳ này trên đảo Cát Bà đã tụ tập thành làng xóm khá trù mật, biết làm nhà cửa chu đáo, có bếp, nồi niêu, bát đĩa và đồ dùng đầy đủ, đồ trang sức cũng phong phú.

Như vậy, người nguyên thủy đã xuất hiện ở Cát Bà từ rất sớm, cách đây 1,5-2,5 vạn năm. Đối với họ, Cát Bà là một thiên đường, nơi có rau củ, tôm cá, chim thú dồi dào. Những mái đá, hang động Trung Trang, Giếng Ngéo, Quân Y, Tiền Đức, Đá Hoa, Phù Long, Hang Rí, Áng Mả… là những ngôi nhà tuyệt vời do tạo hóa ban tặng, thoáng mát vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông và an toàn trước kẻ thù, bao quanh bởi rừng cây um tùm và chim thú đầy đàn.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *