Ngô Chi Lan (1434 – ?) sống vào thế kỷ XV đầy biến động của lịch sử Việt Nam. Bà không phải là anh hùng cứu quốc hay tể tướng danh tiếng, nhưng đã ghi dấu ấn riêng trong lịch sử văn học, trở thành một hiện tượng độc đáo.
Nhiều thông tin về Ngô Chi Lan đến nay vẫn còn trong phạm vi “tương truyền”. Theo Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương, tên thật của bà là Nguyễn Hạ Huệ, nhưng ít được sử dụng so với tên Ngô Chi Lan, gắn liền với tên tự “Quỳnh Hương”. Bà sống chủ yếu dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Tương truyền, bà là cháu ruột của Ngô Thị Ngọc Dao và con nuôi của Nguyễn Thị Lộ. Sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, bà được vời vào cung làm Nữ học sĩ, dạy lễ nghi và văn chương cho các cung nhân. Chồng bà là danh sĩ Phù Thúc Hoành, người làng Phù Xá, giảng dạy Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám, sau đó chuyển sang Viện Hàn lâm.
Ngô Chi Lan nổi tiếng tài sắc vẹn toàn, chăm đọc sách, giỏi đàn ca, từ khúc. Bà thường được Lê Thánh Tông triệu vào chầu hầu trong các buổi xướng họa thơ văn và được phong chức Phù gia nữ học sĩ (Kim Hoa học sĩ) vì bà là người làng Phù Lỗ (làng Sọ), huyện Kim Hoa (Kim Anh, Kinh Bắc, nay thuộc Sóc Sơn, Hà Nội). Bà để lại tập thơ Mai trang tập, nhưng sau này thất lạc gần hết. Hiện còn hai bài thơ chữ Hán thể ngũ ngôn trong Trích diễm thi tập, một chùm thơ trong Truyền kì mạn lục và bài thơ đề núi Vệ Linh trong Lĩnh Nam chích quái.
Trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại, tác giả nữ không nhiều. Ngô Chi Lan là nhà thơ nữ đầu tiên có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng. Sống giữa thời thịnh trị Hồng Đức, thơ bà mang đến một sắc diện trẻ trung và mới mẻ cho văn học đương thời.
Một lần, bà theo Ngô Thái hậu du ngoạn núi Vệ Linh (núi Sóc), và đã viết bài thơ ca ngợi Thánh Gióng:
Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn,
Vạn tử thiên hồng diệm thế gian.
Thiết mã tại thiên, danh tại sử,
Anh uy lẫm lẫm mãn giang san.
(Vệ Linh mây trắng tỏa cây xuân,
Hồng tía muôn hoa đẹp cảnh trần.
Ngựa sắt về trời, danh ở sử,
Oai thanh còn dậy khắp xa gần)
Bài thơ được vua Lê Thánh Tông khen ngợi. Một lần khác, vua sai quan Thị thư họ Nguyễn làm bài từ khúc Uyên ương nhưng không vừa ý, bèn bảo Ngô Chi Lan làm lại. Bà làm xong rất nhanh, được vua ban thưởng và gọi là Phù gia Nữ học sĩ. Từ đó, bà nổi tiếng khắp nơi. Người ta truyền rằng “Mỗi khi yến tiệc, nàng thường ôm quyển đứng chầu hầu vua, hễ vua phán làm thơ, chỉ thoắt chốc đã làm xong ngay”.
Ngô Chi Lan gắn bó sâu sắc với Thăng Long. Cảnh và người Thăng Long đi vào thơ bà một cách nhẹ nhàng, đằm thắm, thoát khỏi phong khí văn học cung đình. Bài Thái liên khúc (Khúc hát hái sen) của bà toát lên vẻ đẹp tươi sáng về vùng hồ Tây – Thăng Long xưa:
Tương khan lục mấn niên,
Vô sự thái khê liên.
Tiểu cô, kiều bất ngữ,
Đới tiếu học xanh thuyền.
*
Liên hoa viễn cận hương,
Thái thái tổng sơn nương.
Mạc khiển phong xuy mấn,
Băng cơ nguyên tự hương.
(Kìa xem cô gái tóc xanh,
Gặp khi thong thả ra ghềnh hái sen.
Cô em duyên dáng lặng yên,
Mỉm cười tập lái đưa thuyền lướt qua.
*
Hương sen thoang thoảng gần xa,
Cô em quê lúa hái hoa trên dòng.
Tóc mây chẳng bận gió lồng,
Nước da băng tuyết trắng hồng mát thay!)
Một nguồn tài liệu quan trọng về Ngô Chi Lan là truyện Kim Hoa thi thoại (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa) trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Câu chuyện dựng lại không khí sinh hoạt văn chương êm đềm của thời thịnh trị, với dinh thất của Ngô Chi Lan và Phù Thúc Hoành như một “Tao đàn” thu nhỏ. Theo Truyền kì mạn lục, bà mất năm ngoài 40 tuổi, nhưng theo một số tư liệu, nếu bà là tác giả bài thơ viếng Lê Thánh Tông (1442 – 1497) thì bà mất sau 50 tuổi.
Người đương thời đồn đoán về mối quan hệ giữa Ngô Chi Lan và Lê Thánh Tông. Những vần thơ châm chọc như:
Quân vương yếu dục tiêu nhàn hận,
Ưng hoán Kim Hoa học sĩ lai.
(Quân vương nếu muốn khuây buồn nản,
Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào)
Hay:
Yến bãi long lâu thi lực quyện,
Lục canh lưu đãi hiểu miên trì.
(Tiệc cạn lầu rồng sức thơ mỏi,
Canh dài giữ đợi giấc nằm trưa)
thể hiện sự ghen ghét và nghi hoặc về mối quan hệ quân vương – nữ sĩ.
Ngô Chi Lan mẫn tiệp, phóng bút thành thơ. Thơ của bà phần nhiều là thơ xướng họa, ứng khẩu, nên bị mất mát nhiều. Xuân Diệu nhận xét thơ Ngô Chi Lan là “một bước tiến của thơ; (…) lời văn ở đây đã trong sáng, liền, thoải mái, không vất vả, không gợn, và có nhạc điệu”. Những sáng tác của bà được lưu lại trong Văn đàn bảo giám, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Nữ lưu văn học sử… Bà và khoảng chục nữ sĩ khác đã nói lên nỗi lòng của cá nhân, của giới mình và thời đại mình một cách xuất sắc.
Ngô Chi Lan vừa là nhà thơ vừa là nhà giáo. Bà đã làm trọn vẹn chức trách của mình, trở thành một trong số ít những “cô giáo” đầu tiên trong lịch sử dân tộc, không chỉ dạy chữ, dạy người mà còn giúp vua giữ yên nội cung để dồn tâm cho chính sự. Tại Phù Lỗ Đoài ngày nay vẫn còn miếu thờ Phù gia nữ học sĩ, dân làng gọi là Miếu Bà.
Năm thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Ngô Chi Lan qua đời. Bà đã để lại một khoảng trống trên thi đàn và niềm tiếc nuối cho bạn văn. Ngô Chi Lan là “người của công chúng” nên những khen chê, nghị xét, đồn đoán có thể khiến bà buồn bực, nhưng rồi cũng qua. Ở cõi bên kia, có thể bà đã gặp được những chị em “cùng một nết phong nhã” để an ủi nhau.