Ngắm Trăng (Vọng Nguyệt): Tri Âm, Tri Kỷ Của Hồ Chí Minh

Trăng, nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, đã đi vào tâm hồn người Việt qua bao thế hệ. Trong kho tàng văn học, Hồ Chí Minh là một trong những người có nhiều vần thơ đặc sắc viết về trăng. Bài thơ “Ngắm trăng” (Vọng nguyệt) ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: những năm tháng bị giam cầm nơi lao tù Tưởng Giới Thạch.

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

(Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ!)

Câu thơ mở đầu khắc họa thực tế nghiệt ngã của chốn lao tù: thiếu vắng rượu và hoa, những thứ thường khơi gợi cảm hứng cho thi nhân. Việc ngắm trăng thưởng hoa vốn dĩ là thú vui tao nhã chỉ có được khi tâm hồn thư thái. Vậy mà, giữa cảnh tù đày, Bác vẫn khao khát được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trăng một cách trọn vẹn. Mặc cho hiện thực xám xịt phủ vây, trái tim yêu đời của Bác vẫn rạo rực, thôi thúc Người ngắm trăng.

Câu thơ “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” thể hiện niềm xao xuyến, rung động của Bác trước vẻ đẹp của trăng. Vầng trăng tròn đầy như mời gọi thi nhân đến bầu bạn, chiêm ngưỡng. Hoàn cảnh giam cầm khiến việc thưởng trăng của người tù thi sĩ trở nên âm thầm, lặng lẽ.

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)

Bốn bức tường xà lim chật hẹp không thể ngăn cản cảm xúc mênh mang của Bác. Người say mê ngắm trăng qua cửa sổ, gửi gắm khát vọng tự do cháy bỏng. Dường như, Bác muốn thì thầm với trăng: “Trăng ơi, trăng có hiểu lòng ta yêu trăng đến nhường nào?”. Sự thổ lộ chân thành từ sâu thẳm tâm hồn đã được trăng cảm động và chia sẻ. Vầng trăng lung linh bỗng chốc trở thành tri âm, tri kỷ.

Vầng trăng đã vượt qua song sắt để “nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Nghệ thuật nhân hóa cho thấy sự gắn bó thân thiết giữa người tù thi sĩ và vầng trăng tự do. Cả người và trăng đều chủ động tìm đến nhau, tạo nên một mối giao cảm đặc biệt.

Không gian tĩnh lặng tuyệt đối càng tôn lên vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn người và tạo vật. Người ngắm trăng, trăng ngắm người trong lặng lẽ, không lời mà chứa đựng bao điều. Hai câu thơ còn thể hiện sức mạnh tinh thần kỳ diệu của người tù thi sĩ. Bên trong là nhà lao đen tối, hiện thực tàn bạo; bên ngoài là vầng trăng thơ mộng, thế giới tự do.

Giữa hai đối cực đó là song sắt nhà tù, nhưng song sắt cũng bất lực trước khát vọng và rung cảm tinh tế của hồn thơ. Giữa “nhân” và “nguyệt”, dẫu có song sắt ngăn cách, con người vẫn để tâm hồn bay bổng vượt ra ngoài không gian tù hãm để bầu bạn với vầng trăng tự do.

Bài thơ “Ngắm trăng” vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Hồ Chí Minh, vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Đằng sau những vần thơ đậm chất cổ điển là một tinh thần thép, khát vọng tự do, phong thái ung dung vượt lên trên sự đè nén, áp bức của chốn lao tù.

Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được một tâm hồn cao đẹp, không hề bận tâm đến những khổ cực, tù túng mà hướng tới vầng trăng, hướng tới cái đẹp của cuộc đời. Ánh sáng của trăng đã xua tan bóng tối ngột ngạt của nhà tù. Giữa Bác và trăng, giữa nhà thơ tự do và thiên nhiên vĩnh cửu, có một mối giao hòa thiêng liêng, khó tả.

“Ngắm trăng” là minh chứng sinh động cho tinh thần “Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao” mà Hồ Chí Minh đã viết. Giữa những bài thơ trăng của Bác, “Ngắm trăng” mang vẻ đẹp giản dị mà sâu sắc về tâm hồn, đạo đức, phẩm giá và phong cách của một con người vĩ đại: Hồ Chí Minh.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *