Vẻ đẹp Thúy Vân qua “nét ngài nở nang”: Giải mã ẩn ý Nguyễn Du

Câu hỏi “Con nào là cào cào, con nào là châu chấu?” có vẻ đơn giản nhưng lại gây tranh cãi do cách gọi khác nhau ở mỗi địa phương. Tương tự, việc giải nghĩa “Nét Ngài Nở Nang” trong câu thơ tả Thúy Vân của Nguyễn Du cũng phức tạp không kém.

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Những người giải thích “nét ngài” là lông mày dựa vào các bản Kiều Nôm xuất bản vào cuối thế kỷ XIX, trong đó chữ “ngài” có “bộ trùng” (虫), nghĩa là con tằm ngài. Họ cho rằng “nở nang” không phù hợp để miêu tả lông mày.

Tuy nhiên, một luồng ý kiến khác lại cho rằng “nét ngài” là tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, chỉ nét người. Với tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du, ông sẽ không dùng “nở nang” để tả lông mày. Khi tả Từ Hải, Nguyễn Du viết “Râu hùm, hàm én, mày ngài,” vậy lẽ nào lông mày Thúy Vân lại giống lông mày lưỡi búa của tướng võ? “Nét ngài nở nang” ở đây nên hiểu là “nét người nở nang”, hợp với việc tả vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu của Thúy Vân.

Vậy, tại sao chữ “ngài” lại có bộ trùng trong các bản Nôm?

Câu trả lời nằm ở việc các bản Kiều Nôm không phải là nguyên bản do Nguyễn Du viết mà được chép lại và in ấn bởi nhiều người. Trong quá trình đó, họ có thể đã hiểu sai ý của tác giả và thay đổi chữ viết theo cách hiểu của mình. Ví dụ, đối với người miền Bắc, chữ “ngài” chỉ có hai nghĩa: con ngài tằm và người được tôn trọng. Do đó, họ cho rằng “con tằm ngài” phù hợp hơn và thêm bộ trùng vào chữ “ngài”.

Ví dụ khác, câu thơ:

Buồng ĐÀO khuya sớm thảnh thơi
Ra vào một mực nói cười như không

Chữ “đào” chỉ màu đào lại được viết thành “đào” (đào cây). Hay câu:

Huyên già dưới GỐI gieo mình
Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi

Chữ “gối” (đầu gối) lại viết thành “gối” (cái gối). Những sai sót này cho thấy không phải chữ Nôm nào trong văn bản cũng đáng tin cậy.

Thực tế, có những bản hiệu đính đã khắc đúng chữ “ngài” để chỉ người, ví dụ như “Kim Vân Kiều tân truyện” được dịch ra tiếng Pháp năm 1884, bản “Kim Vân Kiều tân truyện” do Phúc Văn Đường tàng bản (1916) và bản Kiều do cụ Chu Phi Bảng chép tay ở Diễn Châu, Nghệ An.

Ngoài chữ “ngài”, Nguyễn Du còn sử dụng một số từ Nghệ Tĩnh khác trong “Truyện Kiều,” như chữ “nghỉ” (hắn ta). Ông Đinh Văn Niêm, cháu ngoại sáu đời của Nguyễn Du, từng nói: “Các ông muốn hiệu đính thế nào thì tùy, nhưng nếu đọc đến câu thứ 12 mà “Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung” thì tôi không thèm đọc nữa, vì như vậy là không hiểu tiếng Nghệ Tĩnh và không hiểu cụ Nguyễn Du”.

Nguyễn Du chỉ dùng chữ “nghỉ” để chỉ Mã Giám Sinh và Sở Khanh, những nhân vật bị coi thường. Với các nhân vật khác, ông sử dụng các đại từ nhân xưng phong phú hơn để tránh trùng lặp.

Một ví dụ khác là câu: “Là người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe”. Người miền Bắc có thể không hiểu “chẳng nhe” nghĩa là gì, nhưng đây là tiếng Nghệ, có nghĩa là “ngắm nghía, cân nhắc, suy xét”. Kim Trọng nhận ra Thúy Kiều ngay lập tức, không cần phải “chẳng nhe”.

Hay như câu: “Tú Bà tốc thẳng tới nơi, Hằm hằm áp ĐIÊåU một hơi lại nhà”. “Điệu một hơi” là thành ngữ Nghệ Tĩnh, có nghĩa là dùng nhiều sức để lôi, kéo một người, một con vật theo ý mình trong khi đối tượng chống lại. Tú Bà nín thở kéo Kiều về, vẻ mặt hằm hằm giận dữ.

Cuối cùng, câu “Điều đâu bay buộc ai làm, Vì ai đan RẬP giật giàm bỗng dưng.” Chữ “rập” là dụng cụ bắt giơi, bắt chim của người Nghệ Tĩnh.

Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở Thăng Long, nhưng ông cũng sống ở quê Hà Tĩnh một thời gian dài. Vì vậy, ông hiểu tiếng Nghệ và sử dụng một cách chọn lọc trong tác phẩm của mình. May mắn là số lượng từ Nghệ Tĩnh trong “Truyện Kiều” không nhiều, giúp độc giả dễ dàng tiếp cận và hiểu được tác phẩm.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *