Năm Sáng Tác Truyện Kiều luôn là một câu hỏi lớn đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam. Dựa trên những phân tích sâu sắc về ngôn ngữ, lịch sử và bối cảnh xã hội, nhiều học giả đã đưa ra những giả thuyết khác nhau. Bài viết này sẽ đi sâu vào các bằng chứng và lập luận để tìm hiểu thời điểm ra đời kiệt tác này.
Trong một số nghiên cứu trước đây, GS. Nguyễn Tài Cẩn đã dựa vào các dấu vết trong các bản Kiều Nôm cổ thế kỷ 19, đặc biệt là bản Duy Minh Thị (DMT), để chứng minh rằng Truyện Kiều được sáng tác trước thời Gia Long. Gần đây, GS. Nguyễn Tài Cẩn và PGS. Ngô Đức Thọ đã tiếp tục nghiên cứu nhằm xác định chính xác những năm mà kiệt tác này được hoàn thành cơ bản.
Chữ Kỵ Húy – “Mật Mã” Thời Gian
Một trong những yếu tố quan trọng giúp xác định năm sáng tác Truyện Kiều là việc phân tích các chữ kỵ húy. Đây là những chữ bị thay đổi hoặc tránh dùng để thể hiện sự tôn kính đối với tên húy của vua chúa đương triều.
Việc bổ sung các chữ kỵ húy, đặc biệt là tên húy của Vua Lê Hiển Tông, Lê Chiêu Thống và chúa Trịnh Sâm, Trịnh Khải, Trịnh Bồng, những người cai trị vào thời Nguyễn Du, là một bước đột phá quan trọng.
Tên húy Lê Hiển Tông (1740-1786) bao gồm bộ Thị và chữ Triệu, đọc là Diêu, gần âm với chữ Đào. Bản DMT cho thấy chữ Đào thường được viết khác thường. Tên húy Lê Chiêu Thống (1786-1788) đọc là Kì, đồng âm với chữ Kì là tên húy Vua Lê Thần Tông. Việc kỵ húy thể hiện ở cả âm và chữ viết.
Ví dụ, câu 3110 “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” đổi “cầm kì” (Hán Việt + Hán Việt) thành “cầm cờ” (Hán Việt + Cổ Hán Việt). Ở câu 1473, 3223, từ “cờ” đã có sẵn trong tiếng Việt, nhưng bản DMT vẫn kỵ húy bằng cách thay bộ Mộc bằng bộ Thủ (câu 1473) và bộ Nhục (câu 3223). Trường hợp cuối có lẽ kỵ húy Thần Tông, còn hai trường hợp đầu vừa kỵ húy Thần Tông, vừa kỵ húy Chiêu Thống. Tên húy Trịnh Sâm ở câu 1381 bản DMT viết bớt 2 nét; tên húy Trịnh Khải ở câu 1152 bản Thịnh Mĩ Đường (TMĐ) cũng thay đổi tự dạng. Chữ Bồng (trong “cửa bồng”) có cả vết tích thay đổi tự dạng và thay đổi hẳn cả chữ: câu 2937 bản TMĐ thay bộ Thảo bằng một nét ngang; câu 2627 bản Lâm Noạ Phu (LNP) thay “bồng” bằng “buồng”; bốn bản miền Bắc thay “bồng” bằng “phòng”…
Xác Định Mốc Thời Gian Quan Trọng
Vua Lê Hiển Tông mất năm 1786, Lê Chiêu Thống lên ngôi và Trịnh Bồng lên chức chúa. Truyện Kiều kỵ húy rất kỹ hai ông này, cho thấy việc kỵ húy được thực hiện sau khi hai ông đã nắm quyền. Do đó, năm 1786 trở thành một mốc quan trọng. Hơn nữa, cả Lê Chiêu Thống và Trịnh Bồng chỉ cai trị trong một thời gian ngắn, mất hết vai trò lịch sử sau năm 1788. Truyện Kiều kỵ húy họ ở cả những câu giữa truyện và gần cuối truyện, riêng Lê Hiển Tông còn kỵ húy ở cả gần đầu truyện.
Từ đó, có thể đoán định rằng bản thảo Truyện Kiều đã được cơ bản hoàn thành vào khoảng ba năm 1786, 1787, 1788.
Liên Hệ Với Hoàn Cảnh Gia Đình Nguyễn Du
Năm 1786, Nguyễn Du làm Chánh thủ hiệu ở Thái Nguyên và cưới vợ. Đến năm 1787, ông không làm việc nữa và về quê vợ. Việc không làm việc nhà nước và về quê vợ ở tạo điều kiện thuận lợi cho việc sáng tác. Do đó, có lẽ trong ba năm 1786, 1787, 1788, nên tập trung nhiều hơn vào hai năm 1787, 1788.
Năm 1789, chú của Nguyễn Du là Nguyễn Trọng mất. Theo tục lệ, gia đình phải tôn trọng lệ kiêng húy trong dịp tang tóc này. Việc Nguyễn Du đổi “Trọng” thành “Trượng” ở câu 310 rất phù hợp với sự kiện này. Vậy có lẽ phải kéo dài thêm quãng thời gian sáng tác cho đến năm 1789 hoặc 1790.
Chứng Minh Từ Những Câu Thơ
GS. Hoàng Xuân Hãn đã lưu ý đến hai câu: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Hai câu này rất phù hợp với tình hình những năm 1786 – 1790, giai đoạn đầy biến động chính trị: quân Tây Sơn ra Bắc, Chiêu Thống chạy theo giặc, chấm dứt triều Lê; Trịnh Khải tự sát, Trịnh Bồng bị đánh bại, chấm dứt cơ nghiệp nhà chúa.
Bể dâu cũng xảy ra trong dòng họ tác giả: thanh thế của gia đình Nguyễn Nghiễm (cha Nguyễn Du) sụp đổ, năm 1786 hai anh Nguyễn Khản, Nguyễn Điều mất, năm 1787 anh Nguyễn Nễ phải trốn về quê vợ, và sau đó anh Nguyễn Quýnh cũng bị giết, vùng quê Tiên Điền bị tàn phá.
Nhà nghiên cứu Trương Chính chú ý đến những câu thơ về Từ Hải. Trong không khí chuyên chế đầu triều Nguyễn, Nguyễn Du khó có thể viết những câu như vậy. Giai đoạn 1786 – 1790 là giai đoạn hầu như không có chính quyền (triều đình Lê Trịnh sụp đổ, triều đại Tây Sơn chưa được thừa nhận). Nhưng đó cũng là giai đoạn của những chiến tích hào hùng. Chính vì thế, Nguyễn Du đã có được tự do và cảm hứng xây dựng nhân vật Từ Hải trên cơ sở những mẫu người, những mẫu tâm lý mà mình tán thưởng.
Đó là những mẫu người anh hùng “một tay gây dựng cơ đồ, bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành”, những mẫu người ngang tàng “đội trời đạp đất ở đời”, “nghênh ngang một cõi biên thuỳ”. Những tâm lý trượng phu, sống vì nghĩa lớn, những tâm lý muốn hoàn toàn độc lập, thích “chọc trời khuấy nước mặc dầu/ dọc ngang nào biết trên đầu có ai”; những tâm lý xa lánh chính quyền, đối lập với chính quyền, rất sợ lâm vào cảnh “bó tay về với triều đình/ hàng thần lơ láo phận mình ra đâu”. Nguyễn Du đã thu nhặt chất liệu từ cuộc sống, từ bản thân, dòng họ, xã hội; từ phía Lê Trịnh, từ phía Tây Sơn. Những nhân vật ngang tàng, phóng khoáng kiểu Phạm Thái, vui lòng chết vì đạo nghĩa kiểu Lý Trần Quán; những tâm lý sẵn sàng nổi loạn kiểu Nguyễn Quýnh (anh của Nguyễn Du), Hữu Chất (em của Phan Huy Ích); những con người xa lánh chính quyền kiểu Hải Thượng hay Nguyễn Thiếp chắc hẳn đều đã được Nguyễn Du nghĩ đến khi mô tả Từ Hải. Dù Nguyễn Du không cộng tác với chính quyền mới như hai anh Nguyễn Nễ, Đoàn Nguyễn Tuấn, nhưng hình tượng Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh chắc hẳn vẫn là một hình tượng anh hùng, lưu lại dấu ấn sâu đậm.
Tóm lại, đặt những câu viết về Từ Hải vào những năm xã hội đầy sôi động của khoảng 1786 -1790 là hoàn toàn phù hợp.
Truyện Kiều là truyện của những mối tình: mối tình đầu giữa Kiều và Kim Trọng, mối tình giữa Kiều và Thúc Sinh, mối tình giữa Kiều và Từ Hải. Ba lần yêu được mô tả với ba sắc thái khác nhau, và trong mỗi lần yêu, tình yêu được phân tích tinh tế trong nhiều tâm trạng. Tình yêu gắn với tuổi trẻ, gắn với thời hoa niên trân quý của một đời người. Đặt những câu Nguyễn Du viết rất tài tình và sâu sắc về tình yêu vào trong giai đoạn nhà thơ mới 20 – 25 tuổi là hoàn toàn có lý.
Kết Luận
Giai đoạn từ 1786 đến 1790 được xác định là giai đoạn mà toàn bộ bản phác thảo Truyện Kiều đã được hoàn thành một cách cơ bản. Quá trình thai nghén từ trước và những sửa chữa về sau có thể đã xảy ra, nhưng những năm 1786-1790 vẫn là khung thời gian quan trọng nhất trong quá trình sáng tác kiệt tác này.