Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách. Tình hình lúc bấy giờ vô cùng phức tạp, thù trong giặc ngoài đe dọa nền độc lập vừa giành được. Trước tình thế hiểm nghèo đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quyết sách vô cùng sáng suốt, thể hiện tầm nhìn chiến lược để bảo vệ thành quả cách mạng. Một trong những quyết sách quan trọng đó là ký Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) với Pháp. Vậy, Mục đích Ký Hiệp định Sơ Bộ (6-3-1946) Với Pháp Của Chính Phủ Ta Là Gì?
Trước hết, cần phải thấy rõ bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thực dân Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Chúng vừa tiến công chiếm đóng Nam Bộ và Nam Trung Bộ, vừa cấu kết với quân Tưởng Giới Thạch để đưa quân ra miền Bắc. Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Pháp – Hoa được ký kết, tạo điều kiện cho Pháp thay thế quân Tưởng tước vũ khí quân Nhật ở miền Bắc.
Trong bối cảnh đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 3/3/1946, nhận định rằng việc hòa hoãn với Pháp có thể phá tan âm mưu của các thế lực đế quốc và phản động, bảo toàn lực lượng và tranh thủ thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, tiến tới giành độc lập hoàn toàn.
Chỉ thị nhấn mạnh: “Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”.
Điều này cho thấy, mục đích ký Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) không phải là đầu hàng, nhượng bộ thực dân Pháp, mà là một sách lược khôn khéo để:
- Tránh tình thế bất lợi: Cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều kẻ thù, đặc biệt là khi lực lượng của ta còn non yếu.
- Đuổi quân Tưởng về nước: Việc Pháp thay thế quân Tưởng ở miền Bắc giúp ta loại bỏ một thế lực ngoại bang nguy hiểm, giảm bớt gánh nặng cho đất nước.
- Câu giờ, chuẩn bị lực lượng: Tranh thủ thời gian hòa hoãn để củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ.
- Phân hóa kẻ thù: Tạo điều kiện để ta tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế.
Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) được ký kết giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện Chính phủ Pháp, trong đó Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Đổi lại, ta đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào thay quân Tưởng ở miền Bắc.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng Hiệp định Sơ bộ chỉ là một thỏa thuận tạm thời. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương tìm mọi cách hòa hoãn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nhưng đồng thời không ngừng củng cố lực lượng, sẵn sàng cho cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc.
Sau Hiệp định Sơ bộ, ta tiếp tục đàm phán với Pháp tại Hội nghị Fontainebleau, nhưng không đạt được kết quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang Pháp, gặp gỡ các nhà lãnh đạo và nhân dân Pháp, bày tỏ thiện chí hòa bình của Việt Nam. Tuy nhiên, thực dân Pháp vẫn ngoan cố, không từ bỏ dã tâm xâm lược.
Ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Tạm ước với Pháp, tiếp tục nhượng bộ để vãn hồi hòa bình. Tuy nhiên, đây là sự nhượng bộ cuối cùng.
Mặc dù không ngăn chặn được chiến tranh, nhưng Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14/9/1946) là những thắng lợi quan trọng về mặt ngoại giao, thể hiện sự sáng suốt, khôn khéo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xử lý các vấn đề đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Đó là những nước cờ chiến lược giúp ta tranh thủ thời gian, xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.