“Một bữa no” của Nam Cao không chỉ là một truyện ngắn, mà còn là một bức tranh hiện thực đầy ám ảnh về cuộc sống khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Để hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm này, chúng ta hãy cùng nhau phân tích và đánh giá chi tiết về nội dung, nghệ thuật và những thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm.
Bộ đề đọc hiểu “Một bữa no” – Nam Cao
Tác phẩm xoay quanh cuộc đời khốn khó của bà lão, một hình ảnh tiêu biểu cho những người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Cái đói, sự bất công và sự tha hóa đã đẩy bà đến bước đường cùng, khiến bà phải đánh đổi cả lòng tự trọng để có được “một bữa no”.
Bà lão nhặt nhạnh từng hạt cơm thừa – Hình ảnh ẩn dụ cho sự khốn cùng của người nông dân
Qua câu chuyện này, Nam Cao đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với số phận của những người cùng khổ, đồng thời tố cáo sự bất công và tàn nhẫn của xã hội cũ.
Trắc nghiệm “Một Bữa No”: Đánh Giá Mức Độ Hiểu Biết
Để kiểm tra mức độ hiểu biết của bạn về tác phẩm, hãy cùng nhau trả lời các câu hỏi trắc nghiệm sau đây:
(Đoạn trích)
“… Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hầm hầm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:
– Mời bà phó…
Nhưng bà vừa mới há mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
– Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:
– Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi nguời khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy. Thật ra thì lệ mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm thôi. Mà phải ăn nhanh để còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, làm gì hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy? Bà đoán rằng họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật. Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:
– Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.
Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:
– Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
À! Bây giờ thì bà lão hiểu. Người ta đứng lên tất cả rồi. Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì khí tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
– Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
– Không, mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nũa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:
– Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…
(Trích “Một bữa no” -1943 – Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao).”
- Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là gì?
- Thể loại của văn bản trên là gì?
- Nhân vật chính trong văn bản là ai?
- Câu văn “Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái” sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?
- Hoàn cảnh sống của người nông dân lúc bấy giờ được thể hiện qua đoạn trích như thế nào?
- “Nó” trong câu “Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?” chỉ nhân vật nào?
- Câu nói của bà phó Thụ có hàm ý gì?
- Ngôi kể trong đoạn trích là gì?
- Tính cách của bà phó Thụ được thể hiện qua các lời thoại như thế nào?
- Thông điệp mà tác giả Nam Cao muốn gửi gắm qua cái chết của bà lão là gì?
Phân Tích Sâu Hơn: “Một Bữa No” và Nỗi Đau Của Người Nông Dân
Truyện ngắn “Một bữa no” không chỉ đơn thuần là một câu chuyện về cái đói, mà còn là một lời tố cáo mạnh mẽ về sự bất công và tàn nhẫn của xã hội cũ. Nam Cao đã khắc họa một cách chân thực và sinh động cuộc sống khốn khổ của người nông dân, những người bị đẩy đến bước đường cùng, phải đánh đổi cả lòng tự trọng để có được miếng ăn.
Nhân vật bà lão trong truyện là một hình ảnh tiêu biểu cho những người nông dân nghèo khổ. Bà đã phải trải qua một cuộc đời đầy gian truân và bất hạnh. Chồng chết sớm, con trai cũng qua đời, bà phải một mình nuôi cháu gái. Đến khi tuổi già sức yếu, bà không còn khả năng lao động, phải đi ăn xin để sống qua ngày.
Đọc hiểu văn bản “Một Bữa No”: Tìm Hiểu Chi Tiết
Để hiểu rõ hơn về nội dung và ý nghĩa của tác phẩm, chúng ta hãy cùng nhau đọc và phân tích chi tiết văn bản “Một bữa no”.
(Đoạn trích)
“Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ đưọc một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi. Con vợ nó không phải giống người. Nó có biết thương mẹ già đâu!
[…]
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.”
- Nhân vật trung tâm trong truyện là ai?
- Tình cảnh nào khiến bà cụ phải đi ăn chực?
- Có mấy từ láy trong các câu văn sau: “Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát”?
- Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?
- Hai câu văn “Rồi bà thổ. Rồi bà tả” thuộc kiểu câu gì về cấu tạo ngữ pháp?
- Thái độ của bà phó Thụ trong tác phẩm với bà cụ thể hiện rõ nhất điều gì?
- Qua câu chuyện, Nam Cao phán ánh điều gì ở người nông dân?
- Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói của bà phó Thụ ở cuối truyện?
- Tác giả thể hiện tình cảm gì dành cho nhân vật bà cụ trong tác phẩm?
- Theo em nhân vật bà lão trong truyện đáng thương hay đáng trách? Vì sao?
“Một Bữa No” – Đề 1, 2, 3: Các Góc Nhìn Khác Nhau
Để có cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm, chúng ta hãy cùng nhau tham khảo các đề đọc hiểu “Một bữa no” khác nhau. Mỗi đề sẽ tập trung vào một khía cạnh khác nhau của tác phẩm, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về nội dung, nghệ thuật và thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm.
- Đề 1: Tập trung vào hoàn cảnh của bà lão và tâm trạng của bà khi đối diện với khó khăn.
- Đề 2: Tập trung vào sự đói khổ của bà lão và suy nghĩ về số phận người nông dân trong xã hội cũ.
- Đề 3: Tập trung vào các chi tiết nghệ thuật và ngôn ngữ trong truyện, cũng như thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm.
Kết luận: Giá trị nhân văn sâu sắc của “Một Bữa No”
“Một bữa no” của Nam Cao là một tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc. Qua câu chuyện về cuộc đời khốn khổ của bà lão, tác giả đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với số phận của những người nông dân nghèo khổ, đồng thời tố cáo sự bất công và tàn nhẫn của xã hội cũ. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.