“Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” – câu nói của nhà văn Nga Lêônit Lêônôp không chỉ là một tuyên ngôn nghệ thuật, mà còn là lời khẳng định đanh thép về bản chất sáng tạo của văn học. Nó nhấn mạnh rằng một tác phẩm đích thực không chỉ đơn thuần tái hiện cuộc sống, mà còn phải mang đến những góc nhìn mới, những cách thể hiện chưa từng có.
Bản chất của sáng tạo văn học nằm ở chỗ mỗi tác phẩm là một thực thể duy nhất, không thể sao chép hay lặp lại. Nhà văn không thể chỉ là “người thợ khéo tay”, mà phải là người “biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Nếu không có sáng tạo, văn học sẽ trở nên khô khan, nhàm chán và mất đi giá trị đích thực.
Sáng tạo trong văn học bao gồm cả “khám phá về nội dung” và “phát minh về hình thức”. Nội dung mới mẻ thể hiện những tư tưởng, quan niệm độc đáo về cuộc sống và xã hội. Hình thức mới mẻ là việc tìm tòi, phát hiện những phương thức biểu đạt nghệ thuật độc đáo, có ý nghĩa. Hai yếu tố này đan xen, bổ trợ lẫn nhau, tạo nên sức sống cho tác phẩm.
Tuy nhiên, nếu không có khám phá về nội dung thì cái mới về hình thức (nếu có) sẽ rất ít ý nghĩa. Hình thức chỉ thực sự có giá trị khi nó phục vụ cho việc truyền tải những thông điệp sâu sắc, ý nghĩa. Sáng tạo phải dựa trên sự đào sâu, tìm tòi và kế thừa, chứ không phải chỉ chạy theo cái mới, cái lạ một cách hời hợt.
Cuộc sống là nguồn cảm hứng vô tận cho người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc, thể hiện rõ rệt bản chất của hiện thực. Độc giả tìm đến tác phẩm để bồi đắp tâm hồn, làm phong phú tri thức. Vì vậy, người sáng tác phải mang đến cách nhìn mới, đậm dấu ấn chủ quan.
Ngoài việc tìm đến những mảnh đất mới của hiện thực để gieo mầm tư tưởng, người nghệ sĩ phải biết phát huy vốn ấn tượng riêng, tìm ra những điều mới mẻ trong đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp lại vô nghĩa những điều mà người khác đã nói. Mỗi nghệ sĩ phải tìm ra con đường riêng để đến với cuộc sống và trái tim bạn đọc.
Mỗi tác phẩm là một thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Vì vậy, mỗi tác phẩm trước hết phải là một “khám phá về nội dung”. Muốn vậy, nhà văn không thể chỉ là “người thợ khéo tay”, mà phải “biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao).
Nhà văn phải biết nhìn sâu vào cuộc sống, hiểu tâm hồn con người để khám phá ra vấn đề mới, cất tiếng nói riêng với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung là nội dung của hình thức và hình thức là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tự tìm cho mình một hình thức mới. Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo những biến đổi về nội dung. Có khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời, nhưng lại nói bằng giọng điệu riêng, âm sắc riêng của tâm hồn mình; do vậy, tác phẩm vẫn đem đến cho người đọc cái mới đáng quý.
Cái độc đáo, sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách riêng của người nghệ sĩ. Phong cách không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, một cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được, cái mới không chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là không chỉ thuần tuý đi tìm cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát từ cái mới của nội dung. Khi cả tác phẩm toát lên cốt cách riêng, phong vận riêng mới lạ thì nó sẽ tác động mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ phải đi sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của mình, mặt khác lại vẫn phải gắn bó với cuộc sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân chủ nghĩa.
Mỗi thời đại, mỗi tác giả góp vào dòng chảy văn học một cách cảm nhận mới, một niềm trăn trở khác nhau và một cách nói mới. Điều đó sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển, sự phong phú của nền văn học. Mỗi giai đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc riêng, một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm cho văn học nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác.
Trong văn mạch dân tộc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại để lại một khí dấu, mang một cảm hứng chủ đạo khác nhau. Văn học Lí, Trần, Lê cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người. Họ không đi vào ngợi ca cảnh thái bình thịnh trị như văn học thời Lê mà xoáy sâu vào bi kịch của những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kì này là một tiếng kêu thương thống thiết và một tiếng nói mạnh mẽ khẳng định quyền sống của mỗi cá nhân, sang giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, cảm hứng nổi lên trong văn học chân chính lại là tình yêu nước mãnh liệt, khát vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu thế kỉ XX, các thi sĩ phong trào Thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái “tôi” cá nhân của mình. Mỗi thời đại có một nét riêng và cái riêng ấy dội vào tác phẩm với những âm hưởng khác nhau. Thú vị nhất, độc đáo nhất đối với người đọc là sự lắng nghe những giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với tài năng người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh ta có thể nói lên được điều gì mới lạ hay không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho mỗi tác phẩm có một diện mạo riêng.
Cùng viết về người kĩ nữ, nhưng Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu, mỗi người có một cách nhìn riêng, một cách nói riêng. Bằng khúc Tì bà hành, thi sĩ họ Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và cũng thể hiện nỗi đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng hát người kĩ nữ cất lên giữa đêm trăng cô vắng làm thức dậy bao nỗi niềm của chàng Tư mã áo xanh. Nỗi xót thương ấy, nỗi đau khổ ấy ta vẫn gặp trong văn học cổ điển.
Nếu Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu yêu thương mà vẫn bất lực, vẫn chỉ biết đau đời cất lên tiếng kêu tuyệt vọng với con tạo hay đánh ghen với khách má hồng, thì Tố Hữu lại đem đến cho chúng ta một niềm lạc quan, tin tưởng. Từ trong hiện tại còn bao nhục nhã, xót xa, thi sĩ đã hướng tới ngày mai, một ngày mai tươi sáng. Nhà thơ khẳng định cuộc đời đau khổ của người kĩ nữ kia sẽ đổi thay.
Thiên nhiên cũng là một đề tài muôn thuở của văn chương nhưng không bao giờ cũ bởi mỗi thời đại, mỗi nghệ sĩ lại nhìn thiên nhiên ấy với một cảm quan riêng. Trong thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như là bức tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc hoạ bằng đôi nét chấm phá cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy, nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác.
Cùng là mùa thu ấy, làn gió ấy khi vào thơ Xuân Diệu chúng trở nên khác hẳn. Làn gió của Xuân Diệu không hắt hiu thổi mà run rẩy vì thu đến. Rét mướt như một sinh thể ẩn vào trong gió. Cũng là cảnh cây cối, nhưng trong cảm quan của Xuân Diệu, lá cây như run lên vì lạnh.
Từ vầng trăng trong thơ Nguyễn Khuyến đến vầng trăng trong thơ Xuân Diệu cũng khác biệt biết bao. Với Nguyễn Khuyến, vầng trăng hiền hoà như người bạn muôn đời của thi nhân. Đến Xuân Diệu, trăng như có linh hồn, có tâm sự, trăng cũng thấm thía nỗi cô đơn.
Có thể nói, lòng yêu thiên nhiên ở Xuân Diệu mang cái đắm say của một hồn thơ khao khát sống, khao khát yêu đương mãnh liệt. Đọc Vội vàng, ta cũng thấy đây là “một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Thực sự “Xuân Diệu ta nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Khi ông nói đến thiên nhiên cũng là nói đến niềm say đắm sự sống. Trái tim bồi hồi, rạo rực, băn khoăn ấy đã tự tìm cho mình bộ “y phục tối tân”, trút cái “áo cổ điển” đầy gò bó, tìm đến thể thơ tự do với những câu dài ngắn khác nhau. Thơ Xuân Diệu bài nào cũng có sự hăm hở, đắm say. Thi sĩ cuống quýt, hôi hả để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, chứ không chỉ lặng lẽ ngắm nhìn như các nhà thơ cổ.
Mỗi nghệ sĩ, khi đi sâu vào cuộc sống, đều nỗ lực tìm ra một cách khám phá mới lạ. Cùng viết về nông dân, Nam Cao khác Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Chính những khám phá ấy đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn học. Để tạo ra cái mới, người nghệ sĩ cần có tài năng, có năng khiếu bẩm sinh để phát huy cái riêng của mình. Cũng để tạo ra sự mới lạ, nhà văn không thể xem sáng tác như một thú nghề chơi mà cần có sự khổ luyện, có sự đào sâu, tìm tòi.
Sáng tạo ra cái mới chính là kết quả của sự công phu và tài năng, nó tạo sức mạnh cho người nghệ sĩ chiến thắng quy luật băng hoại của thời gian.