Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Việt Nam chịu sự xâm lược của thực dân Pháp, dẫn đến sự phân hóa sâu sắc trong xã hội. Giai cấp công nhân và tư sản dần hình thành, làm gia tăng các mâu thuẫn vốn có của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay sai.
Sự áp bức, bóc lột và chà đạp lên quyền độc lập dân tộc của thực dân Pháp đã làm bùng nổ tinh thần phản kháng mạnh mẽ trong nhân dân. Các phong trào yêu nước liên tục nổ ra, nhưng đều thất bại do thiếu đường lối đúng đắn.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã tìm ra con đường cứu nước duy nhất đúng đắn: con đường cách mạng vô sản, dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Người khẳng định rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ.
Trong Chính cương vắn tắt năm 1930, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản. Mục tiêu chính là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã nhận thấy rõ sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước phương Tây. Trong khi mâu thuẫn giai cấp ở phương Tây rất sâu sắc thì ở Việt Nam, mâu thuẫn dân tộc lại nổi lên hàng đầu. Do đó, Người chủ trương tập trung vào nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc trước, sau đó mới giải quyết mâu thuẫn giai cấp và đánh đổ phong kiến.
Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, quyết định mở Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, quyết định mở Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ tại Phú Đình, Định Hóa, Thái Nguyên, thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt trong việc giải quyết mâu thuẫn dân tộc.
Người kêu gọi toàn thể dân tộc, không phân biệt giai cấp, đoàn kết lại để chống kẻ thù chung, giành độc lập cho đất nước. Tư tưởng này xuất phát từ truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước.
Trong quá trình tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”, Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Mục tiêu là đánh đổ thực dân Pháp và bè lũ tay sai, giành độc lập cho dân tộc, sau đó mới giải quyết mâu thuẫn giai cấp và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan điểm này được Người khẳng định nhiều lần, trong đó có Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản (tháng 7/1940).
Cần nhấn mạnh rằng, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu không có nghĩa là chỉ chống đế quốc mà còn phải chống lại bộ phận phong kiến phản động. Vấn đề là phải “chống phong kiến nhưng không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ chống đế quốc”. Việc chống đế quốc và phong kiến phản động mang lại độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, thể hiện nội dung dân chủ. Đó là tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh trong việc xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản lại có một số quan điểm khác biệt, cho rằng mấu chốt của cách mạng dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa là vấn đề ruộng đất, và nhiệm vụ dân chủ phải được tiến hành “song song với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc”.
Rõ ràng, trong bối cảnh Việt Nam lúc bấy giờ, không thể đặt nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến song song, cũng như không thể coi cách mạng ruộng đất là vấn đề mấu chốt khi chưa giành được độc lập dân tộc.