Lũ Chúng Tôi Bọn Người Tứ Xứ: Khúc Hát Về Những Người Lính Vệ Quốc Đoàn

Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên, xuất hiện vào thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc hình ảnh những người lính Vệ quốc đoàn. Đặc biệt, câu thơ “Lũ Chúng Tôi Bọn Người Tứ Xứ” đã trở thành một biểu tượng, một lời tự giới thiệu đầy hóm hỉnh và tự hào về những con người từ khắp mọi miền quê hương, tụ hội về đây chiến đấu cho độc lập tự do.

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một, hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sư mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Đoạn thơ mở đầu đầy ấn tượng, giới thiệu một cách tự nhiên về những người lính. “Lũ chúng tôi, bọn người tứ xứ” không chỉ đơn thuần là một lời giới thiệu, mà còn là sự khẳng định về nguồn gốc xuất thân đa dạng của những người lính. Họ đến từ mọi miền quê, từ những vùng đất khác nhau, mang theo những phong tục tập quán, những giọng nói riêng, nhưng tất cả đều có chung một mục tiêu cao cả: chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc.

Từ “lũ” và “bọn” mang sắc thái dân dã, thể hiện sự đông đảo, mạnh mẽ. “Gặp nhau hồi chưa biết chữ” cho thấy trình độ học vấn còn hạn chế của những người lính, phần lớn xuất thân từ nông dân, công nhân. “Súng bắn chưa quen, quân sư mươi bài” lại là một lời tự trào hóm hỉnh về trình độ quân sự còn non trẻ. Tuy nhiên, tất cả những điều đó không làm giảm đi tinh thần lạc quan, yêu đời của họ: “Lòng vẫn cười vui kháng chiến”.

Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh…

Những câu thơ tiếp theo miêu tả cuộc sống gian khổ, thiếu thốn của những người lính. Họ phải tự rèn dao kiếm từ sắt đường tàu, áo vải chân không đi lùng giặc đánh. Dù vậy, họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc.

Hình ảnh “áo vải chân không” gợi lên sự gian khổ, thiếu thốn, nhưng đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết tâm, không ngại khó khăn của những người lính. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, gian khổ để chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp.

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa

  • Đằng nớ vợ chưa?
  • Đằng nớ?
  • Tớ còn chờ độc lập
    Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
    Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu…

Đoạn thơ miêu tả cuộc sống đời thường của những người lính trên đường hành quân. Họ cùng nhau chia sẻ những khó khăn, gian khổ, cùng nhau mơ về tương lai tươi sáng. Những câu hỏi thăm nhau về gia đình, về người yêu, những tiếng cười vang vọng giữa núi rừng càng làm tăng thêm tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó.

Câu nói “Tớ còn chờ độc lập” thể hiện khát vọng lớn lao của những người lính. Họ sẵn sàng hy sinh tất cả để giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng…
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
… Có tiếng gà gáy sớm
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa…
Trăng lên tập họp hát om nhà.

Những người lính đi qua nhiều vùng quê, gặp gỡ những con người khác nhau, chứng kiến những cảnh đời khác nhau. Tất cả những điều đó đã in đậm trong tâm trí họ, trở thành những kỷ niệm không thể nào quên.

Hình ảnh “mẹ già bắt rận cho những đứa con xa” thể hiện tình quân dân cá nước thắm thiết. Những người lính được nhân dân yêu thương, đùm bọc, che chở như con em ruột thịt.

“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ” – những người lính Vệ quốc đoàn đã trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu kiên cường và lòng lạc quan yêu đời của dân tộc Việt Nam. Họ là những người anh hùng thầm lặng, đã góp phần quan trọng vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, giải phóng dân tộc.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *