Site icon donghochetac

Làm Lẽ Hồ Xuân Hương: Góc Nhìn Sâu Sắc Về Thân Phận Người Phụ Nữ Trong Xã Hội Phong Kiến

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng: Sự tương phản trong cuộc sống hôn nhân đa thê

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng: Sự tương phản trong cuộc sống hôn nhân đa thê

Hồ Xuân Hương, “Bà Chúa Thơ Nôm” với những vần thơ trào phúng độc đáo, đã không ít lần chạm đến những vấn đề nhức nhối của xã hội phong kiến. Trong số đó, “Làm Lẽ” nổi bật như một tiếng kêu xé lòng về thân phận người phụ nữ, đặc biệt là những người phải chịu cảnh “chồng chung”. Bài thơ không chỉ là nỗi lòng riêng của nữ sĩ mà còn là tiếng nói chung của biết bao phận đời éo le trong xã hội xưa.

“Làm Lẽ” không chỉ đơn thuần là một bài thơ, nó là một bức tranh chân thực, đầy xót xa về cuộc đời của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, bị tước đoạt quyền tự do và hạnh phúc cá nhân. Thân phận “làm lẽ” càng đẩy họ vào bi kịch, nơi mà tình yêu, sự tôn trọng và cả những nhu cầu cơ bản nhất cũng trở nên xa vời.

Bài thơ mở đầu bằng một sự tương phản đầy chua xót, phơi bày thực tế phũ phàng của cảnh “chồng chung”:

“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.”

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng: Sự tương phản trong cuộc sống hôn nhân đa thêKẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng: Sự tương phản trong cuộc sống hôn nhân đa thê

Sự tương phản “kẻ đắp chăn bông – kẻ lạnh lùng” không chỉ gợi lên sự khác biệt về vật chất mà còn khắc họa sâu sắc sự bất công trong tình cảm. Người vợ cả được hưởng sự ấm áp, yêu thương, còn người vợ lẽ lại phải chịu đựng sự lạnh lẽo, cô đơn. Câu chửi “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” thể hiện sự phẫn uất, căm hờn của người phụ nữ trước số phận trớ trêu.

Hai câu thơ tiếp theo diễn tả sự hờ hững, lạnh nhạt trong quan hệ vợ chồng, thể hiện sự tủi hờn của người vợ lẽ:

“Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.”

Sự xuất hiện thưa thớt của người chồng được diễn tả bằng những cụm từ “năm thì mười họa”, “chăng hay chớ”, “một tháng đôi lần có cũng không” càng làm tăng thêm sự cô đơn, trống trải trong lòng người vợ lẽ. Họ khao khát tình yêu thương, sự quan tâm nhưng lại chỉ nhận được sự hờ hững, thờ ơ.

Hai câu thơ tiếp theo sử dụng thành ngữ dân gian để diễn tả sự cố gắng vô vọng của người vợ lẽ trong việc tìm kiếm hạnh phúc:

“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.”

Thành ngữ “cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm” diễn tả sự cố gắng, nỗ lực nhưng không mang lại kết quả tốt đẹp. Người vợ lẽ cố gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình nhưng cuối cùng lại nhận lấy sự thất vọng, cay đắng. Hình ảnh “cầm bằng làm mướn, mướn không công” cho thấy sự tủi nhục, thân phận thấp kém của người vợ lẽ trong gia đình. Họ phải làm việc vất vả nhưng không được trả công xứng đáng, không được tôn trọng và yêu thương.

Bài thơ kết thúc bằng một tiếng thở dài đầy chua xót, thể hiện sự hối hận của người vợ lẽ khi đã chấp nhận cuộc sống “chồng chung”:

“Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.”

Giá như biết trước cuộc sống “làm lẽ” lại khổ cực, tủi nhục đến như vậy, thì thà ở vậy còn hơn. Câu thơ thể hiện sự thất vọng, hối hận và cả sự bất lực của người phụ nữ trước số phận.

“Làm Lẽ” không chỉ là một bài thơ hay mà còn là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Bài thơ đã phản ánh chân thực thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời lên án chế độ đa thê bất công, vô nhân đạo. Hồ Xuân Hương đã thay mặt những người phụ nữ bất hạnh cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền được yêu thương và tôn trọng.

“Làm Lẽ” là một bài thơ mang đậm phong cách Hồ Xuân Hương: trào phúng, táo bạo, nhưng cũng đầy xót xa và nhân văn. Bài thơ đã góp phần làm nên tên tuổi của “Bà Chúa Thơ Nôm” và trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Exit mobile version