Ngành hàng không đã trải qua một chặng đường dài đầy nỗ lực để đạt được sự an toàn như ngày nay. Từ những chuyến bay sơ khai đầy rủi ro, đến những cải tiến vượt bậc về công nghệ và quy trình vận hành, ngành hàng không đã chứng minh được khả năng không ngừng vươn lên và đặt sự an toàn của hành khách lên hàng đầu.
Trong những năm đầu của ngành, tai nạn xảy ra với tần suất đáng báo động. Năm 1929, một năm đầy biến động với cuộc Đại Suy Thoái, cũng là một trong những năm chứng kiến nhiều tai nạn hàng không nhất, với 24 vụ tai nạn gây chết người. Vào những năm 1928 và 1929, tỷ lệ tai nạn là khoảng một vụ trên mỗi triệu dặm bay. Nếu tỷ lệ này vẫn còn tồn tại đến ngày nay, chúng ta sẽ phải đối mặt với khoảng 7.000 vụ tai nạn chết người mỗi năm, một con số không tưởng.
Tuy nhiên, trong suốt 70 năm sau đó, với sự phát triển của công nghệ và sự hoàn thiện của các quy trình vận hành, số lượng tai nạn đã giảm đáng kể. Vào những năm 1940, số vụ tai nạn gây chết người trung bình hàng năm dao động từ 5 đến 10. Đến những năm 1970, con số này đã giảm xuống dưới 5. Đáng chú ý, đã có những năm ngành hàng không không ghi nhận bất kỳ tai nạn gây chết người nào.
Sự giảm thiểu tỷ lệ tai nạn còn ấn tượng hơn nữa, với tốc độ giảm theo cấp số nhân. Vào những năm 1930, tỷ lệ này chỉ còn khoảng một phần mười so với mức của những năm 1928-1929. Trong vòng 20 năm tiếp theo, tỷ lệ này lại giảm xuống một phần mười nữa, chỉ còn khoảng một vụ tai nạn trên một trăm triệu dặm bay. Kể từ năm 1997, tỷ lệ này luôn ở mức hoặc dưới một trên 2 tỷ.
Việc bãi bỏ quy định trong ngành hàng không năm 1978, cho phép các hãng hàng không cạnh tranh về giá cả và đường bay, đã vấp phải nhiều lo ngại rằng nó sẽ dẫn đến sự gia tăng tai nạn. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh điều ngược lại. Trong hơn hai thập kỷ kể từ khi Đạo luật Bãi bỏ Quy định Hàng không được thông qua, hồ sơ an toàn của ngành không hề cho thấy dấu hiệu suy giảm. Trên thực tế, du lịch hàng không ngày nay an toàn hơn đáng kể so với năm 1978.
Trong 24 năm kể từ khi các biện pháp kiểm soát kinh tế được dỡ bỏ, số vụ tai nạn gây chết người trung bình là 3,2 vụ mỗi năm. Trong 24 năm trước khi bãi bỏ quy định, con số này gần gấp đôi, với trung bình 6,2 vụ mỗi năm. Sự khác biệt về tỷ lệ tai nạn thậm chí còn ấn tượng hơn, với các hãng hàng không trung bình 0,0007 vụ tai nạn gây chết người trên một triệu dặm sau khi bãi bỏ quy định, chỉ bằng khoảng một phần bảy so với tỷ lệ của 24 năm trước đó.
Điều này không có nghĩa là việc bãi bỏ quy định tự nó đã tăng cường an toàn hàng không. Xu hướng chung về cải thiện an toàn vẫn tiếp tục với tốc độ tương tự trước và sau khi bãi bỏ quy định. Điều quan trọng là những dự đoán ảm đạm về thảm họa của những người phản đối thị trường tự do đã không trở thành sự thật.
Một trong những lý do là những người bi quan đã hiểu sai về động cơ của các doanh nghiệp trong một thị trường cạnh tranh. Thay vì cắt giảm các biện pháp an toàn để đạt được lợi nhuận ngắn hạn, các hãng hàng không nhận thấy rằng việc đảm bảo an toàn cho hành khách là điều quan trọng hơn nhiều. Đơn giản là không ai kiếm được tiền bằng cách đặt hành khách vào nguy hiểm. Các hãng hàng không như Air Florida và ValuJet đã phải trả giá đắt cho bài học này. Tóm lại, thị trường cung cấp những gì người tiêu dùng yêu cầu – và trên hết, hành khách hàng không yêu cầu sự an toàn.
Tất nhiên, vẫn còn chỗ cho những cải tiến hơn nữa trong an toàn du lịch hàng không: trong việc ngăn ngừa tai nạn và trong việc đảm bảo an ninh trong thế giới sau ngày 11 tháng 9. Nhưng khi chúng ta kỷ niệm 100 năm ngày ngành hàng không ra đời, chúng ta cũng có thể tự hào về những thành tựu an toàn của thế kỷ qua, và những nhà phát minh và doanh nhân đã biến điều đó thành hiện thực.