Bà chỉ đồng ý nuôi con mèo, và điều đó khá miễn cưỡng. Bà thích mèo nói chung, đặc biệt là con mèo Xiêm của bà, Mojo, sau khi nó qua giai đoạn mèo con điên cuồng. Nhưng con mèo này – Nal hay gì đó – là một vấn đề hoàn toàn khác. Nó khó tính và xấu xí, một mớ hỗn độn màu cam lởm chởm. Có một điều khá ngạc nhiên là nó chưa bị trợ tử.
Nhưng cậu bé đã hỏi rất tử tế. Và bà đã nghỉ hưu nên công việc đó không quá nhiều.
Đến ngày thứ hai, bà cắn lưỡi vì bực bội. Nali đã cào Mojo, tích trữ thức ăn một cách dữ dội, và bà Vessler tống khứ mớ hỗn độn rít lên đó ra hiên nhà.
Ethan biết rằng anh không nên quay lại. Anh phải tiếp tục di chuyển, phải tiếp tục luyện tập. Anh luôn trùm mũ lên, giữ im lặng, tiếp tục di chuyển. Đó là cách anh sẽ được an toàn. Đó là cách anh sẽ giữ an toàn cho người khác. Đó là lý do tại sao anh bỏ Nali lại. Sẽ tốt hơn cho nó so với việc ở ngoài đường phố với anh. Anh không thể ích kỷ. Anh không được ích kỷ. Anh phải mạnh mẽ. Sống xứng đáng với tên của mình.
Bà Vessler tìm thấy anh trên hiên nhà, cuộn tròn, ướt đẫm sương buổi sáng, cánh tay gầy guộc màu nâu đặt lên mắt, Nali rên rỉ chiếm hữu trên đầu anh.
Anh tỉnh dậy một cách sắc bén, đầu giật giật, vai nhô lên, “Cháu xin lỗi, xin lỗi, cháu không nên ở lại. Cháu không có ý,”
Bà làm anh im lặng, đưa cho anh một cốc sô cô la nóng.
Anh cố gắng từ chối nhưng bà khăng khăng, “Cháu đã ở ngoài này cả đêm, phải không?”
Anh gật đầu, xấu hổ.
“Vậy thì cháu cần thứ gì đó để làm ấm. Các cháu của ta luôn uống nó khi chúng đến chơi.”
Và họ cứ ngồi đó, cậu bé với một tay sưởi ấm trên cốc, tay kia gãi sau tai con mèo đang rung lên, để hơi nước đọng trên lông mi, nhìn những viên kẹo dẻo nổi bồng bềnh, lắng nghe tiếng cọt kẹt của chiếc ghế bập bênh của bà khi bà uống trà xanh phía sau anh.
Cuối cùng anh cũng uống. Anh nghiêng đầu, đẩy những viên kẹo dẻo xuống cho đến khi chúng tan chảy.
“Cháu không nên gọi cho bố mẹ cháu sao?” bà hỏi.
“Cháu không thể,” anh nói. “Họ là những người tốt,” anh vội nói, “họ chỉ ở xa thôi.”
“Ai đó phải lo lắng cho cháu chứ.”
“Vâng,” anh gật đầu, “Chắc chắn rồi.” Có những người. Rất nhiều người. Rất nhiều màu sắc. Ông Bill Waters, màu xanh đậm với sự quan tâm cộc cằn và kẹo cao su dưa hấu. Marja, màu hồng hoa hồng, với đôi tay ấm áp và đôi mắt thỏ. Ngay cả người đàn ông đã bán cho anh chiếc xe đạp, với màu xanh lam nhạt của những hối tiếc trong quá khứ đã khắc tên anh lên mặt. Và Jessie… màu tím rực rỡ, xinh đẹp và mạnh mẽ. Anh nhớ cô. Nhưng anh không an toàn.
Trà của bà đã hết. Bà đẩy ghế ra sau, “Đi thôi.”
Anh lau chân, xỏ giày vào, dừng lại để rửa cốc trước khi theo bà vào phía sau.
“Nó nhỏ,” bà nói, dịch chuyển gối và vuốt thẳng ga trải giường, “nhưng nó sẽ ổn thôi. Nó là của con gái ta khi nó còn là một cô bé.”
Anh nhìn chằm chằm vào tấm ga trải giường hình chó đốm, vẽ theo một trong những chú chó con hoạt hình đang nhảy nhót. Anh muốn ở lại.
Bà là một màu kem mềm mại, như màu trắng của con mèo của chính bà, như sự yên tĩnh của ngôi nhà, như những viên kẹo dẻo cũ trong ca cao của anh. Và bà cô đơn, giống như anh. Sẽ không tệ nếu họ không còn cô đơn nữa.
“Cháu không thể trả tiền cho bà,” anh nói. Thực sự, mười đô la một ngày mà anh đã đề nghị chỉ để chăm sóc Nali đã là quá khó khăn, “nhưng cháu có thể làm việc.”
Anh đã làm việc. Chăm chỉ.
Anh bắt đầu với Mojo, xoa một loại thuốc mỡ lên vết cắt của nó, nói rằng anh tự làm, học được từ một cái gì đó sarin. Anh nói từ đó với sự tôn kính, quên giải thích. Bà đoán nó phải là một loại bác sĩ nào đó, có một chút sợ hãi về voodoo. Xét cho cùng, anh ta là người nước ngoài, với một giọng điệu ngân nga, hơi du dương với những từ ngữ núi non và thung lũng. Nhưng bà không nghe thấy bất kỳ phép thuật nào.
Anh rất xin lỗi về vết thương, đã có một cuộc nói chuyện căng thẳng với Nali như thể nó có thể hiểu anh, nhưng vẫn bảo vệ nó. “Nó đã có một cuộc sống khó khăn,” anh nói.
Bà có thể lạc mất anh trong một ngôi nhà nhỏ như vậy. Anh rất im lặng. Bà đi theo tiếng rền của con mèo đang rên rỉ để tìm anh.
“Nó không nói nhiều, phải không?” mục sư của bà nói.
Bà học cách nhận thấy và bỏ qua những dấu hoa thị im lặng của anh. Những điều nhỏ nhặt như giọng điệu đó, những người bạn mà anh không bao giờ gọi tên, cách anh luôn mặc áo dài tay.
Bà đã nghĩ anh có thể là người bất hợp pháp, thậm chí đã đề cập đến điều đó.
“Không, về mặt kỹ thuật cháu là một công dân. Mẹ cháu là người Mỹ.” Anh không nói tại sao anh không nghĩ bà ấy còn là người Mỹ nữa. “Cháu được sinh ra ở đây, vào một buổi sáng tối tăm vì mưa,” anh nói, như thể kể lại một câu chuyện.
Anh không bao giờ nói anh là gì.
Họ gọi anh là “quý ông trẻ tuổi” của bà bây giờ. Anh luôn làm việc, cắt tỉa hàng rào trong sân nhà ông Davidson, đi câu cá với Clarence, đi mua sắm tạp phẩm cho bà, rửa bát. Và không ai đánh bại anh ta ở cờ đam. Anh ấy giỏi làm vườn, mặc dù anh ghét nhổ bồ công anh, nói rằng chúng tốt cho dạ dày và tim. Lá cho dạ dày, màu sắc tươi sáng cho tim.
Bà vẫn không thích con mèo, nhưng bà không bận tâm nếu nó có thể giữ cậu bé. Thật tốt khi có một người khác để hít thở trong ngôi nhà đó. Bà nhìn anh, Nali chiếm hữu vai anh, Mojo nép mình dưới chân anh, kim đan của anh lách cách.
Bà ngạc nhiên khi bà O’ Bryant bắt đầu dạy anh, nhưng anh đã học đan len với sự chính xác nghiêm túc giống như mọi thứ khác. Đó là ý tưởng của anh. Bàn tay anh luôn phải cử động. Bà không biết anh đã lấy những chiếc kim loại cầu vồng đó ở đâu. Mặc dù anh có thể sử dụng nhiều màu sắc hơn trong quần áo của mình, anh có một tình yêu mẫu giáo dành cho những thứ tươi sáng và bóng bẩy. Bà đã nhìn thấy cuốn sách dán hình của anh, đầy những hình dán máy bán hàng tự động rẻ tiền thay đổi theo góc độ, từ những chuyến du lịch mà anh không nói đến với một người bạn đồng hành mà anh không gọi tên. Nó ở ngay cạnh hai cuốn sách mà anh bảo bà không được xem, chúng không “tốt lắm”.
Anh thấy dọn dẹp giúp ích. Làm cho anh bình tĩnh hơn, làm cho thế giới dường như dễ dàng hơn. Anh chưa bao giờ nhận ra sức mạnh của một bồn rửa trống rỗng. Và anh lo lắng liệu có đúng khi hạnh phúc vì một điều đơn giản như vậy.
“Cha tôi đã chiến đấu với rồng,” anh nói với bà một đêm, đứng bên bồn rửa. Anh biết bà sẽ không tin anh, nghĩ rằng tất cả đều là ẩn dụ.
“Cha tôi đã chiến đấu với rồng, và tôi rửa bát.”
Bà nghe thấy sự thất bại trong giọng nói của anh. “Ai đó phải làm,” bà nói. “Không có gì đáng xấu hổ cả. Không ai có thể chiến đấu với rồng, nếu không có ai rửa bát. Không có gì sai trái với một cuộc sống bình thường, cũng như hạnh phúc nếu nó chân thật. Đó chẳng phải là những gì họ chiến đấu với rồng để làm gì sao?”
Anh nghĩ lại về dì của mình và những con ếch. Một ngày nọ, những con nòng nọc rời khỏi nước, vào không khí xa lạ, và chúng không bao giờ trở lại như cũ. Chúng không thể bơi mãi mãi.
Anh biết bây giờ tại sao hầu hết các anh hùng trong truyện cổ tích đều không hạnh phúc, những đứa trẻ mồ côi, những người bị tước quyền thừa kế, những người không có gì để mất.
Sẽ luôn có nhiều bát đĩa hơn rồng. Trong in general my father doesn’t mind, sự thật đó vẫn vang vọng.