Hình Ảnh Thơ: Sức Mạnh và Sự Hấp Dẫn Trong Văn Chương

Ai cũng hiểu rõ tầm quan trọng của hình ảnh trong cuộc sống con người. Chúng ta sống trong thế giới hình ảnh và cần chúng như ánh sáng để nhìn, không khí để thở. Hình ảnh là sự phản ánh của cuộc sống vào mắt ta, một nguồn thông tin quý báu và cần thiết. Nó còn là công cụ diễn đạt nhạy bén, trực tiếp, có thể truyền tải những điều mà ngôn ngữ khái niệm khó lòng làm được.

Hình ảnh đóng vai trò quan trọng trong việc diễn đạt trong văn, thơ và các ngành nghệ thuật tạo hình. Trong văn chương, Hình ảnh Thơ là những hình ảnh ảo của sự vật được ngôn ngữ gợi lên trong trí tưởng tượng của chúng ta thông qua các khái niệm và biểu tượng. Sự trừu tượng của nó giúp hài hòa với ngôn ngữ khái niệm, vốn cũng rất trừu tượng, nhưng lại có khả năng diễn đạt nội tâm của văn thơ. Thơ ca cần hình ảnh, dù chỉ là những hình ảnh tượng trưng.

Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong…

Thâm Tâm, Tống biệt hành (1940)

Những câu thơ trên giàu hình ảnh, dù chỉ là những hình ảnh trừu tượng, hình ảnh của khái niệm. Chúng vẫn cho phép người đọc mường tượng được khung cảnh sông nước, vẻ đẹp của hoàng hôn và một tâm sự lãng mạn. Trong khi đó, hình ảnh trong đời sống và nghệ thuật tạo hình (hội họa, điêu khắc, kiến trúc, điện ảnh…) là hình ảnh thật, cụ thể mà mắt ta có thể nhìn thấy được.

Hình ảnh ảo, hình ảnh mở, hay hình ảnh tưởng tượng

Ta có thể chia hình ảnh thành hai loại: hình ảnh ảo và hình ảnh cụ thể. “Ảo” ở đây không mang nghĩa thường dùng trong quang học hay tin học (hình ảnh trong gương, trên màn hình máy tính). Những hình ảnh đó, dù tay ta không chạm vào được, nhưng mắt ta vẫn nhìn thấy được. Chúng là hình ảnh thật, phản chiếu hoặc tái hiện sự vật cụ thể.

Hình ảnh ảo mà ta nói đến là hình ảnh mà ta không nhìn thấy bằng mắt, mà chỉ hình dung được bằng trí tưởng tượng, thông qua các khái niệm trong ngôn ngữ. Vì vậy, nó còn được gọi là hình ảnh “mở” hay hình ảnh “tưởng tượng”.

Chẳng hạn, khi ta mô tả vẻ đẹp của một dòng sông, một cây cầu, hay một khuôn mặt, người đọc chỉ có thể hình dung ra một phần nào đó cái đẹp ấy thông qua các khái niệm và kỷ niệm về những dòng sông, cây cầu, khuôn mặt mà họ đã từng gặp. Không phải ai cũng hình dung ra cùng một dòng sông, một cây cầu, một khuôn mặt, và không phải ai cũng cảm nhận được cùng một cái đẹp mà tác giả đã mô tả. Vì vậy, nhiều khi có những hình ảnh thơ trong một tác phẩm văn học đã khắc sâu vào trí tưởng tượng của chúng ta, nhưng khi xem một bộ phim được dựng dựa trên tác phẩm đó, ta lại không tìm thấy đúng những hình ảnh mà mình đã hình dung.

Điều này gần như là một quy luật. Cái đẹp của hình tượng văn học mà ta cảm thụ được trong trí tưởng tượng của mình, và ngay cả cái đẹp của một bức họa mà mắt ta nhìn thấy, cũng không thể nào giống hoàn toàn với cái đẹp mà người khác ghi nhận được. Đó là do bản chất “chủ quan” của sự phán đoán của con người trong lĩnh vực thẩm mỹ.

Xem như vậy, trong văn, thơ, ngoài vẻ đẹp tự thân của ngôn ngữ (câu chữ, nhạc điệu, nhịp điệu), ngoài vẻ đẹp của nội dung (cốt truyện, chủ đề tư tưởng, tình cảm nhân vật), còn có vẻ đẹp của những hình ảnh thơ mà tác giả tạo nên trong trí tưởng tượng của người đọc thông qua ngôn ngữ. Ta gọi loại hình ảnh này là hình ảnh “mở”, vì nó cho phép người đọc tha hồ tưởng tượng, không như vẻ đẹp được thể hiện một cách quá cụ thể, cố định, bằng vật liệu, chất liệu, màu sắc của một bức họa, một bức tượng, một công trình kiến trúc, hoặc một tác phẩm điện ảnh. Khả năng tạo ra những hình ảnh mở của ngôn ngữ văn chương chính là một trong những yếu tố có sức quyến rũ không thể nào thay thế được của văn, thơ.

Hình ảnh cụ thể hay hình ảnh thật

Hình ảnh cụ thể là hình ảnh mà mắt ta nhìn thấy được, xúc giác nhận biết được. Đó là hình ảnh của sự vật trong thiên nhiên và trong đời sống, hoặc hình ảnh được tạo nên bởi các tác phẩm nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật bày biện, nghệ thuật múa, điện ảnh…

Tranh minh họa “Khách đà lên ngựa người còn nghé theo” của Nguyễn Tư Nghiêm, diễn tả sự quyến luyến trong chia ly của Kiều.

Trong các phong cách hội họa hiện đại, đặc biệt là trong hội họa trừu tượng, người ta quan niệm rằng tất cả những gì hiện diện cụ thể trên mặt vải đều có một vai trò nhất định và góp phần tạo nên giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.

Trên một bình diện khác, người ta thường cho rằng kiến trúc là một nghệ thuật “trừu tượng”, vì những hình khối kiến trúc thường chỉ là những hình khối hình học, làm bằng những vật liệu vô tri, vô giác. Thẩm mỹ kiến trúc chỉ là thẩm mỹ của những hình khối, đường nét, tỷ lệ, nhịp điệu, vật liệu, chất liệu…

Khả năng hòa hợp giữa hình ảnh ảo và hình ảnh thật

Một ví dụ đáng chú ý trong lịch sử nghệ thuật là sự hòa hợp giữa thơ, thư pháp và hội họa trong một vài nền văn hóa ở phương Đông, đặc biệt là nền văn hóa của Trung Quốc và một số nước có nền Nho học, Lão học và Phật học như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.

Cố Khải Chi, họa sĩ thời Lục Triều, Trung Quốc, người tiên phong trong việc kết hợp thơ, họa, và thư pháp.

Đã có một thời, trong những nền văn hóa này, các văn nhân thường sử dụng cây bút lông của mình vừa để viết, lại vừa để vẽ. Họ vừa có thể đồng thời là nhà thơ, nhà thư pháp và nhà họa sĩ. Trên một bức tranh cổ, một bức bình phong, hay một chiếc bình cổ, người ta thường có nhu cầu đề thơ. Thơ và thư pháp góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp trang trọng của bức họa, bức bình phong, hay chiếc bình cổ. Ngược lại, một bức họa có thể làm nổi bật sự cao quý của một bài thơ, và khiến cho nó cụ thể, sống động hơn.

Trong khi thơ diễn đạt cái đẹp của thiên nhiên và của cuộc sống bằng những nét ẩn dụ, và bằng những hình ảnh trừu tượng, thì hội họa diễn đạt trực tiếp bằng những hình ảnh cụ thể. Dường như nhân loại đã ý thức được điều này ngay từ sớm. Trong hội họa cổ điển ở phương Đông, đặc biệt là hội họa cổ điển Trung Quốc, người họa sĩ bao giờ cũng thể hiện thiên nhiên và sự vật trong cuộc sống thông qua quan niệm thẩm mỹ và triết lý của mình. Họ diễn dịch, hoặc cách điệu hóa, chứ không sao chép y chang. Không những thế, họ còn có nhu cầu hoàn thiện, bổ sung, phụ họa cho tác phẩm hội họa bằng những ý tưởng trừu tượng qua thơ, văn. Do đó, cái nhu cầu đề thơ lên tranh, và vẽ tranh lên một bài thơ, đã trở thành một truyền thống.

Sức hấp dẫn của hình ảnh trong thơ, văn

Mặc dù cái đẹp được gợi lên qua những hình ảnh thơ trong văn, thơ chỉ là một cái đẹp ảo, chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của mỗi người, và phần nào khá mơ hồ, bởi vì chỉ là cái đẹp ẩn dụ, ước lệ, nhưng đứng về mặt tác dụng, nó cũng có đủ những nét tượng hình để gợi lên cho người đọc một ý niệm về cái đẹp của đối tượng được mô tả, dù chỉ là một cái đẹp được phác họa bằng những nét chung chung, những khái niệm, những biểu tượng, quy ước, đã được sự đồng thuận của nhiều thế hệ người, và đã trở thành những chuẩn mực của cái đẹp trong một truyền thống văn hóa.

Tranh minh họa cảnh “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” trong Truyện Kiều, thể hiện vẻ đẹp kín đáo, e ấp của Thúy Kiều và Thúy Vân.

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, chẳng hạn, nhà thơ cũng chỉ mô tả được hai nàng Kiều bằng những nét ẩn dụ, rất tượng trưng như:

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh

(Nguyễn Du, Truyện Kiều, câu 20-26)

Nhưng rõ ràng, qua những câu thơ này người đọc có thể tưởng tượng được sắc đẹp của hai chị em nàng Kiều một cách thoải mái!

Thơ hay văn, dù có tượng hình đến đâu cũng không thể nào diễn đạt được một cách đầy đủ cái hình dạng thật của một đối tượng. Do đó, hình ảnh thơ trong văn chương luôn luôn là những hình ảnh mở, và người đọc có thể tự mình tưởng tượng ra cái hình ảnh ấy. Đây cũng chính là một ưu điểm của ngôn ngữ nói và của ngôn ngữ văn chương. Nó không gò bó trí tưởng tượng của người đọc, và khiến cho người ta có một vai trò tích cực trong việc xây dựng hình ảnh, cũng như trong việc thưởng thức và thẩm định tác phẩm.

Có thể nói rằng văn chương là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ khái niệm, thường chỉ có một nghĩa trừu tượng, đủ để cho người ta phân biệt được khái niệm “cái bàn” với khái niệm “cái ghế”, nhưng không mô tả được hình dạng thật của cái bàn đó, hay cái ghế đó, trong khi nghệ thuật tạo hình là ngôn ngữ của hình ảnh cụ thể, mà con mắt người nhìn thấy được, kiểm tra được.

Cái đẹp của hình tượng được diễn đạt trong ngôn ngữ văn chương chỉ có thể là một cái đẹp trừu tượng, dù có được mô tả một cách chi tiết, thì cũng chỉ là thông qua phép ẩn dụ, thông qua những mẫu mực đã có sẵn được coi là chuẩn, đôi khi cũ mòn, hoặc sáo rỗng. Cái nhu cầu đề thơ lên tranh, hoặc ngược lại, sử dụng nét vẽ để minh họa, bổ sung cho hình tượng ảo trong thơ, văn, đều có cái lô gích của nó: những gì mà người ta không diễn đạt được bằng ngôn ngữ khái niệm, thì người ta phải diễn đạt bằng hình ảnh cụ thể, và ngược lại.

Trong thơ, văn, người ta chỉ có thể diễn đạt bằng những hình ảnh ảo, hoặc ẩn dụ. Mặc dầu vậy, những hình ảnh này có khả năng quyến rũ rất lớn, vì đó là những hình ảnh mở, cho phép người đọc tưởng tượng thoải mái, tùy theo cái gu thẩm mỹ, tùy theo kinh nghiệm sống và trình độ văn hóa của mình.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *