Vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển chăn nuôi, đặc biệt là trâu, bò, dê và ngựa. Tuy nhiên, phương thức chăn nuôi còn nhiều hạn chế, đòi hỏi các giải pháp đồng bộ và hiệu quả để khai thác tối đa tiềm năng này.
Hiện nay, chăn nuôi bò thịt đang trên đà phát triển tại khu vực này, dù chủ yếu vẫn là các giống bò địa phương với vóc dáng nhỏ bé.
Tổng đàn bò thịt năm 2014 đạt 1.516.267 con, tăng 1,7% so với năm trước. Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 60.160 tấn, tăng 11,2% so với năm 2013.
Số lượng đàn trâu năm 2014 của toàn vùng đạt trên 1,87 triệu con, chiếm 74,6% tổng đàn trâu của cả nước; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 56.355 tấn, chiếm 64,9%. Chăn nuôi dê cũng là một thế mạnh, với đàn dê năm 2014 đạt trên 898.295 con, chiếm 56,1% tổng đàn dê của cả nước. Đàn ngựa cũng phát triển nhanh chóng, đạt 65.500 con vào năm 2014, chiếm 97,9% tổng đàn ngựa của cả nước, với sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 1.260 tấn, chiếm 92,6%.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ngành chăn nuôi khu vực vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Phương thức chăn nuôi quảng canh, nhỏ lẻ vẫn còn phổ biến, và tỷ lệ trâu, bò, dê thả rông còn cao. Quy hoạch vùng phát triển chăn nuôi chưa hoàn thiện, và việc chuyển đổi đất canh tác nông nghiệp kém hiệu quả sang trồng cỏ, cây thức ăn chăn nuôi còn hạn chế. Chất lượng nguồn thức ăn thô xanh còn thấp, giống cỏ trồng chủ yếu là cỏ hòa thảo, và việc sử dụng phụ phẩm nông, công nghiệp để chế biến thức ăn cho gia súc nhai lại chưa được khai thác hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển chăn nuôi bền vững, một trong những Giải Pháp Chủ Yếu để Phát Triển Chăn Nuôi Hiện Nay ở Trung Du Và Miền Núi Bắc Bộ Là mở rộng diện tích đồng cỏ và nâng cao chất lượng thức ăn chăn nuôi.
Cần chuyển đổi diện tích đất sản xuất lương thực kém hiệu quả sang trồng cây thức ăn gia súc, phổ biến các giống cỏ năng suất cao, chịu hạn, chịu rét tốt. Khuyến khích nông hộ và trang trại dành diện tích đất thích hợp để trồng thâm canh các loại cỏ như cỏ voi, cỏ Ghi nê, VA06, kết hợp trồng cỏ hỗn hợp, cỏ họ đậu để cải thiện chất lượng cỏ.
Thu gom rơm rạ, cây ngô, cây đậu, cây lạc sau thu hoạch; dự trữ, chế biến để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn thức ăn, phế phụ phẩm nông nghiệp sẵn có tại địa phương (ủ chua, xử lý rơm, thân cây ngô già bằng urê…). Dự trữ thức ăn thô (rơm rạ, cỏ khô), bổ sung cho trâu, bò (rơm ủ urê, ủ chua thức ăn xanh, chế biến bánh dinh dưỡng-urê-rỉ mật) nhằm đảm bảo đầy đủ khẩu phần ăn, nâng cao sức đề kháng, khả năng chống đỡ bệnh tật cho đàn gia súc nhai lại.
Ngoài ra, việc áp dụng các mô hình khuyến nông hiệu quả cũng đóng vai trò quan trọng. Dự án “Xây dựng mô hình cải tạo chất lượng đàn bò địa phương bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và vỗ béo bò thịt trong nông hộ” đã chứng minh hiệu quả khi triển khai tại nhiều tỉnh trung du và miền núi phía Bắc.
Dự án đã xây dựng được 28 mô hình trình diễn với 56 điểm trình diễn, bao gồm 14 mô hình cải tạo chất lượng bò địa phương bằng kỹ thuật TTNT và 14 mô hình vỗ béo bò thịt. Kết quả cho thấy, hiệu quả kinh tế của các hộ tham gia dự án tăng 13 – 15%.
Dự án chăn nuôi trâu sinh sản quy mô nông hộ cũng góp phần nâng cao tỷ lệ sinh sản của đàn trâu cái, rút ngắn khoảng cách lứa đẻ, nâng cao khối lượng nghé sơ sinh và hiệu quả chăn nuôi trâu sinh sản của các hộ tham gia mô hình lên 10 – 15%.
Bên cạnh đó, cần hướng dẫn nông dân chăn nuôi theo giai đoạn, quy trình để giảm chi phí thức ăn và khai thác tối đa mức tăng trưởng của vật nuôi. Luôn chọn lọc, thay thế đàn để nuôi thịt, vỗ béo trâu, bò, dê thịt trước khi bán hoặc giết thịt.
Tóm lại, giải pháp chủ yếu để phát triển chăn nuôi hiện nay ở trung du và miền núi bắc bộ là kết hợp nhiều yếu tố: mở rộng diện tích đồng cỏ, nâng cao chất lượng thức ăn chăn nuôi, áp dụng các mô hình khuyến nông hiệu quả và cải tiến quy trình chăn nuôi. Chỉ khi đó, ngành chăn nuôi khu vực mới có thể phát triển bền vững và khai thác tối đa tiềm năng vốn có.