Đám cưới, sự kiện trọng đại đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời mỗi người, thường được biết đến với những hình ảnh tươi đẹp, rộn ràng và đầy hy vọng. Thế nhưng, dưới ngòi bút của Nam Cao, “Một đám cưới” lại hiện lên như một bức tranh buồn thảm, phơi bày những góc khuất nghiệt ngã của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là thân phận người phụ nữ nông thôn. Để đọc hiểu sâu sắc hơn tác phẩm này, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích đoạn trích dưới đây:
“Rồi ông ngồi lử thử. Bởi vì ông buồn lắm. Chỉ lát nữa là người ta rước Dần đi. Ðêm hôm nay, chỉ còn mình ông với hai đứa trẻ con . Nhà sẽ vắng ngắt vắng ngơ, chẳng khác gì ngày vợ ông mới chết đi. Rồi chỉ mươi bữa, nửa tháng là ông đã phải bỏ nốt hai đứa con trai để ngược… Chao ôi! Buồn biết mấy?…Ông đờ đẫn cả người. Ông nghĩ bụng rằng: giá Dần không phải về nhà người ta, thì có lẽ chẳng đời nào ông phải lên rừng; ông cứ ở nhà với ba con, bố con đùm bọc lấy nhau, bây giờ bỏ lại hai đứa bé mà đi, ông thương chúng nó quá… A thì ra ông phải đi nơi khác làm ăn, chẳng phải vì cớ gì khác mà chỉ vì Dần phải đi lấy chồng, Dần đi lấy chồng, không ai trông coi vườn đất, nhà cửa, con cái cho ông nữa… Ông buồn quá. Ông đáp lại những câu rất dài dòng của bà thông gia bằng những câu ngắn ngủn. Bà thông gia, trái lại nhiều lời lắm. Bà vui vẻ. Bà nói luôn. Bởi tài ăn nói của người ta, một đời mới có dịp dùng đến độ vài lần. Bà thì chỉ một lần thôi, bởi vì bà có mỗi một mống con trai. Lấy một con vợ cho con, có dễ đâu? Nhất là mình lại không có nhiều tiền. Công việc phải qua mấy mươi nấc, mấy mươi cầu. Chưa cưới được vợ về cho con, thì còn là đi lại mỏi chân, van ông lạy bà sái hàm răng… Công việc của bà, mười phần xong đến chín phần rồi. Còn một tý chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho yên ổn cả. Người ta gả con gái, đã chẳng được gì thì cũng phải được lời nói mát lòng, mát ruột cho hả dạ…
Đến tối, đám cưới mới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai. Ông bố vợ đã tưởng không đi. Nhưng bà mẹ chồng cố mời. Vả lại nếu ông không đi, thì hai đứa bé cũng không thể đi mà Dần thì đang khóc lóc. Nếu chỉ có mình nó ra đi thì có lẽ nó cũng không chịu nốt. Ông đành kéo mấy cành rào lấp ngõ rồi đi vậy.
Dần không chịu mặc cái áo dài của bà mẹ chồng đưa, thành thử lại chính bà khoác cái áo ấy trên vai. Dần mặc những áo vải ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách. Nó sụt sịt khóc, đi bên cạnh mẹ chồng. Chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ…”
( Một đám cưới, Tuyển tập Nam Cao, NXB Văn học, 2015, tr.262 – 264)
Phương Thức Biểu Đạt Chính và Cảnh Đưa Dâu Khác Thường
Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là tự sự, kể lại câu chuyện đám cưới của Dần, từ đó hé lộ những bi kịch ẩn sau vẻ ngoài của một sự kiện trọng đại.
Cảnh đưa dâu của Dần hiện lên đầy khác thường và xót xa qua những chi tiết sau:
-
Số lượng người ít ỏi: “Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai,” cho thấy sự nghèo nàn, cô quạnh, thiếu vắng niềm vui và sự chúc phúc.
-
Tâm trạng cô dâu: “Dần thì đang khóc lóc,” “Nó sụt sịt khóc,” thể hiện sự đau khổ, tủi phận, không hề có niềm hạnh phúc của một cô dâu trong ngày cưới.
-
Trang phục: “Dần mặc những áo vải ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách,” nhấn mạnh sự nghèo khó, thiếu thốn, thậm chí là túng quẫn của gia đình Dần.
-
Hình ảnh đoàn người: “Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ,” gợi lên sự cô đơn, lạc lõng, không có tương lai tươi sáng.
Điểm Nhìn và Ý Nghĩa
Đoạn trích sử dụng linh hoạt hai điểm nhìn:
- Điểm nhìn người kể chuyện (bên ngoài): Cho phép người đọc tiếp cận câu chuyện một cách khách quan, bao quát.
- Điểm nhìn của nhân vật cha Dần (bên trong): Giúp người đọc thấu hiểu tâm trạng đau khổ, buồn bã, thương con của người cha nghèo.
Việc kết hợp hai điểm nhìn này mang lại những ý nghĩa sau:
- Tăng tính khách quan và chân thực: Câu chuyện không chỉ đơn thuần là lời kể một chiều mà còn được soi chiếu qua lăng kính cảm xúc của nhân vật, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về hoàn cảnh và số phận của họ.
- Khắc họa rõ nét tâm lý nhân vật: Người đọc có thể hiểu rõ hơn những suy nghĩ, trăn trở, nỗi đau của người cha khi phải gả con gái đi vì nghèo khó.
- Gợi lên sự đồng cảm: Việc thấu hiểu tâm trạng nhân vật giúp người đọc đồng cảm với nỗi đau của họ, từ đó suy ngẫm về những vấn đề xã hội mà tác phẩm đặt ra.
Biện Pháp Tu Từ và Tác Dụng
Câu văn: “Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ” sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Sự so sánh này có tác dụng:
- Tái hiện sinh động: Hình ảnh đoàn người đưa dâu nghèo nàn, cô đơn được khắc họa rõ nét, gợi lên cảm giác xót xa, thương cảm.
- Gợi cảm xúc mạnh mẽ: So sánh với “gia đình xẩm” (những người hành khất) càng làm nổi bật sự tủi nhục, bất hạnh của gia đình Dần.
- Thể hiện thái độ của tác giả: Qua sự so sánh này, tác giả thể hiện sự xót thương, đồng cảm sâu sắc với số phận của những người nghèo khổ trong xã hội cũ.
Suy Ngẫm về Thân Phận Người Phụ Nữ Nông Thôn
Qua đám cưới của Dần, chúng ta có thể thấy rõ thân phận của người phụ nữ nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám:
- Cuộc sống vất vả, nghèo khổ: Họ phải lao động vất vả để kiếm sống, gánh vác gánh nặng gia đình.
- Không có quyền tự quyết: Họ bị ép gả, không được lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình.
- Bị coi thường, rẻ rúng: Họ bị coi như một món hàng để trao đổi, mua bán.
- Bất hạnh, đau khổ: Họ phải chịu đựng những bất công, tủi nhục, không có tương lai tươi sáng.
Đám cưới của Dần là một minh chứng rõ ràng cho thân phận bi thảm của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Họ là nạn nhân của nghèo đói, bất công và những hủ tục lạc hậu. Tác phẩm của Nam Cao không chỉ là một câu chuyện buồn mà còn là lời tố cáo đanh thép đối với xã hội bất công, đồng thời khơi gợi lòng thương cảm và ý thức đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn.