Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 5 đến 12 tháng 9 năm 1960, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Sự kiện này không chỉ là sự tiếp nối các kỳ đại hội trước đó, mà còn mang những đặc điểm và nhiệm vụ riêng biệt, phản ánh tình hình và yêu cầu mới của đất nước.
Đại hội quy tụ 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, đại diện cho hơn 50 vạn đảng viên trên cả nước. Một nửa trong số các đại biểu này đã tham gia cách mạng từ thời kỳ Đảng hoạt động bí mật, thể hiện sự kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế cũng đến tham dự, khẳng định vị thế và uy tín của Đảng trên trường quốc tế.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III được bầu tại Đại hội gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Hồ Chí Minh tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Đảng, và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này thể hiện sự tin tưởng và kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân vào sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Lê Duẩn trong giai đoạn lịch sử mới.
Điểm khác biệt cơ bản và quan trọng nhất của Đại hội III so với các kỳ đại hội trước là việc xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam.
Trước đó, Đại hội II (1951) tập trung vào kháng chiến chống Pháp và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Đến Đại hội III, khi miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ trọng tâm chuyển sang xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời là hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đại hội III cũng nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai nhiệm vụ cách mạng ở hai miền:
- Miền Bắc: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo quan hệ sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nhiệm vụ này được xác định là “quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”.
- Miền Nam: Tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trên, Đại hội III đã đề ra đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đó là: “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông – Nam Á và thế giới”.
Đại hội cũng thông qua Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) với các nhiệm vụ cụ thể như phát triển công nghiệp và nông nghiệp, hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân, và củng cố quốc phòng.
Tóm lại, điểm khác nhau cơ bản giữa Đại hội III và các kỳ đại hội trước nằm ở việc xác định rõ nhiệm vụ chiến lược kép: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Đại hội III đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam, giai đoạn vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến tới thống nhất đất nước.