Trong văn hóa Việt Nam, cách tính thời gian theo “đêm Năm Canh” và “ngày sáu khắc” mang đậm dấu ấn của nền nông nghiệp và quan niệm vũ trụ cổ xưa. Hãy cùng khám phá sâu hơn về hệ thống đo thời gian độc đáo này.
Thuở xa, người Việt sử dụng hệ Thập Nhị Địa Chi, hay 12 con giáp, để gọi tên năm, tháng, ngày và giờ. Thứ tự 12 con giáp quen thuộc là: Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mão (Mèo), Thìn (Rồng), Tỵ (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó) và Hợi (Heo). Các tháng cũng được gọi theo con giáp, ví dụ tháng Giêng (tháng Một) là tháng Dần.
Alt: Tranh dân gian 12 con giáp, biểu tượng văn hóa truyền thống Việt Nam. Từ khóa liên quan: con giáp, văn hóa Việt Nam, tranh dân gian, lịch âm.
Nhiều người thắc mắc vì sao tháng Giêng lại gọi là tháng Dần mà không gọi là tháng Một. Theo một số quan điểm, trong chế độ quân chủ, con số “một” thường được dành để chỉ nhà vua, thiên tử, người đứng đầu. Để tránh phạm húy, người dân kiêng kỵ sử dụng số “một” cho những việc thông thường.
Theo sách xưa ghi lại:
Nhân sinh ư Dần 人生于寅 (Loại người sinh ra ở hội Dần).
Nhứt niên chi kế tại ư Xuân 一年之计在于春 (Kế hoạch trong 1 năm phải được sắp đặt ở mùa Xuân).
Nhứt nhật chi kế tại ư Dần 一日之计子于寅 (Kế hoạch trong 1 ngày phải sắp đặt ở giờ Dần).
Trong 12 con giáp, hổ (Dần) được coi là chúa sơn lâm, mạnh mẽ nhất. Vì vậy, tháng Giêng được chọn là tháng Dần, để con cọp “cầm tinh”.
Vậy tại sao tháng Chạp (tháng 12 âm lịch) lại là tháng cuối năm mà không gọi là tháng Mười Hai?
Trong xã hội nông nghiệp, tháng cuối năm là thời điểm thu hoạch mùa màng xong xuôi. Người dân dành thời gian này để lo các lễ cúng, tiệc tùng tạ ơn Thần Nông và các vị thần linh đã phù hộ cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Chữ “Chạp” cũng mang ý nghĩa là lễ cúng. Vì vậy, tháng Mười Hai còn được gọi là tháng Chạp.
Alt: Mâm cúng cổ truyền Việt Nam, thể hiện lòng thành kính. Từ khóa liên quan: mâm cúng, lễ cúng, văn hóa tâm linh, truyền thống Việt Nam.
Đêm Năm Canh, Ngày Sáu Khắc
Lịch cổ truyền Đông phương xuất hiện từ thời Hoàng Đế bên Tàu, năm 2637 trước Công Nguyên năm 61. Vậy “đêm năm canh, ngày sáu khắc” được tính như thế nào?
Người xưa tính khắc cho ngày và canh cho đêm. Ta thường nghe những câu như:
“Canh Một dọn cửa, dọn nhà
Canh Hai dệt cửi, canh Ba đi nằm…”
Hoặc: “Nửa đêm giờ Tý canh Ba”
Câu “nửa đêm giờ Tý canh Ba” cho thấy nửa đêm tương ứng với khoảng 12 giờ đêm (0 giờ), còn giờ Tý canh Ba tương ứng với khoảng 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng. Người xưa dùng 12 con giáp để phân chia giờ trong một ngày có 24 giờ:
Giờ | Thời Gian | Giờ | Thời Gian |
---|---|---|---|
Tý | Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng | Ngọ | Từ 11 giờ đến 13 giờ trưa |
Sửu | Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng | Mùi | Từ 13 giờ đến 15 giờ xế trưa |
Dần | Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng | Thân | Từ 15 giờ đến 17 giờ chiều |
Mão | Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng | Dậu | Từ 17 giờ đến 19 giờ tối |
Thìn | Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng | Tuất | Từ 19 giờ đến 21 giờ tối |
Tỵ | Từ 9 giờ đến 11 giờ sáng | Hợi | Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya |
Như vậy, ban ngày dài 14 giờ, ban đêm dài 10 giờ. Từ đó, ta có thể tính được bảng 5 canh như sau:
Tên Canh | Thời Gian |
---|---|
Canh 1 | Từ 19 giờ đến 21 giờ (giờ Tuất) |
Canh 2 | Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya (giờ Hợi) |
Canh 3 | Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng (giờ Tý) |
Canh 4 | Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng (giờ Sửu) |
Canh 5 | Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng (giờ Dần) |
Mỗi canh kéo dài hai giờ.
Alt: Nông dân Việt Nam làm việc xuyên đêm, gắn liền với canh giờ truyền thống. Từ khóa liên quan: nông dân, canh giờ, đời sống nông thôn, văn hóa Việt Nam.
Ban ngày dài 14 giờ, được chia thành 6 khắc:
Tên Khắc | Thời Gian | Tên Khắc | Thời Gian |
---|---|---|---|
Khắc 1 | Từ 5 giờ đến 7 giờ 20 sáng | Khắc 4 | Từ 12 giờ đến 14 giờ 20 xế trưa |
Khắc 2 | Từ 7 giờ 20 đến 9 giờ 40 sáng | Khắc 5 | Từ 14 giờ 20 đến 16 giờ 40 chiều |
Khắc 3 | Từ 9 giờ 40 đến 12 giờ trưa | Khắc 6 | Từ 16 giờ 40 đến 19 giờ tối |
Như vậy, mỗi khắc dài 2 giờ 20 phút.
Cách tính “đêm năm canh, ngày sáu khắc” phản ánh sự quan sát tỉ mỉ và trí tuệ của người xưa trong việc đo lường thời gian, đồng thời gắn liền với nhịp sống sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp.