Dòng sông Tam Kỳ, con sông quê hương, trong tôi tựa như một báu vật thiêng liêng, một thứ bùa hộ mệnh, luôn được yêu thương và nương tựa. Tình yêu quê hương, đất nước, phải chăng luôn bắt nguồn từ những điều cụ thể, nhỏ bé nhất của tuổi thơ?
Khi ngắm nhìn dòng sông Cửu Long bao la, hình ảnh con sông nhỏ bé hiền hòa của quê nhà lại hiện về. Từ đó, tình yêu dành cho miền Tây Nam Bộ phóng khoáng, màu mỡ và nghĩa hiệp càng thêm sâu đậm. Đứng giữa sông Tiền, sông Hậu, nghe tiếng vọng cổ lan tỏa trên dòng nước mênh mông, những bài học sử địa từ thuở ấu thơ bỗng ùa về.
Ngày ấy, thầy Vũ Huấn, người thầy Sử Địa tuyệt vời, đã giúp tôi hình dung ra những giọt mồ hôi, cả máu đã đổ xuống vùng đất khẩn hoang của cư dân ngũ Quảng. Những bước chân khai phá nặng nề, nhọc nhằn của những người dân nghèo chấp nhận tha phương cầu thực, cần cù, cam chịu nhưng luôn ấp ủ ước mơ về một cuộc đổi đời. Thầy đã khai phá tâm hồn tôi, giúp tôi yêu thêm những chân trời xa lạ của đất nước, những vùng đất chỉ biết qua những bài học.
Cảm giác đầu tiên khi đứng bên dòng sông Tiền là sự choáng ngợp. Nếu con sông Tam Kỳ nước xanh trong vắt thì sông Tiền, sông Hậu lại đục ngầu phù sa. Cửu Long mang phù sa bồi đắp cho phương Nam mỡ màng, làm trù phú cho miền đất mới. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất tốt tươi, sinh sôi nảy nở và mang lại sự giàu có. Tuy nhiên, sự thật cay đắng là đất đai ở đây cũng chỉ làm giàu cho những người có tiền của, chức tước, quyền hành. Nhiều căn nhà xiêu vẹo, tạm bợ và những người dân quần quật trên cánh đồng đầy phèn, mong sống được qua ngày. Dẫu vậy, vẫn thấy bên trong sự cam chịu, nhẫn nhục ấy là sức mạnh và sự lạc quan đến kỳ diệu. Họ nghèo túng nhưng không hề ám ảnh, luôn sẵn sàng chia sẻ những gì mình có cho người khác.
Cũng cảm giác ấy khi ở sông Hậu hay đi qua U Minh Hạ, đứng bên dòng sông Trẹm, tự hỏi: Sao quê mình nghèo quá vậy? Những con sông xanh trong chỉ vì không mang phù sa về với đồng ruộng. Nó đẹp nhưng nghèo. Nó có mặt trong thơ văn nhưng không giúp ích cho bữa ăn của người dân, không giúp họ cơ hội đổi đời. Phải chăng vì thế mà người dân miền Trung luôn khao khát học tập, sẵn sàng hy sinh tất cả cho con cái được học hành, vì đó là con đường gần như duy nhất để thay đổi cuộc đời? Có phải, trong sạch thì nghèo như con sông kia nước trong vắt thì có đâu phù sa, có đâu tôm cá? Nhưng, dẫu có mang nặng phù sa thì cũng không phải ai cũng có thể nhờ cậy. Muôn đời, số phận những người bán mặt cho đất vẫn cứ thua thiệt, nhất là trong một xã hội mà thước đo nhân phẩm, tư cách con người được tính bằng tiền, bằng những hư danh, phù vân.
Đối diện với những con sông ở phía Bắc, cảm xúc vừa lãng mạn vừa bi tráng lại dâng trào. Lang thang trên bờ sông Đuống, câu thơ của Hoàng Cầm cứ duềnh lên chếnh choáng: “Em ơi, buồn làm chi. Anh sẽ đưa em về bên kia sông Đuống…”. Tôi chỉ dỗ dành tôi thôi: Tôi ơi, buồn làm chi!
Dừng chân ở Lào Cai, nơi con sông Hồng bắt đầu chảy vào Việt Nam, hay ở Hà Giang rồi Tuyên Quang theo dấu sông Lô hoặc khi về thăm Kiếp Bạc, qua Lục Đầu Giang, nơi gặp nhau của sông Thương, sông Cầu, sông Đuống, sông Kinh Thầy, Lục Nam và sông Thái Bình, trái tim lại càng thêm xao xuyến.
Có gì khác nhau giữa con sông Hồng ở Lào Cai với dòng sông Nho Quế ở Hà Giang? Sông Bạch Đằng khác gì sông Thương, sông Cầu? Về bản chất, về cấu tạo thì không có gì khác nhau. Nhưng nó lại khác nhau về ý niệm con người, về bao điều nó lưu giữ, chất chứa trong dòng chảy. Đừng nghĩ nước trôi đi không bao giờ trở lại! Đừng nghĩ “sóng Trường Giang lớp sau đè lớp trước”! Dòng sông nào cũng có một phần hồn, một phần đời sống riêng mà chính cái riêng đó mới bất tử. Nước thì trôi nhưng hồn nước thì cứ ở mãi với con người…
Sông Thạch Hãn và đặc biệt sông Bến Hải lại gợi lên sự tò mò, sự ngăn cách về địa lý hay về tình cảm. Tôi muốn biết dòng sông trả lời cho các câu hỏi của mình, rằng: “Khi xuôi về biển, sông mang gì theo? Có chở nặng nỗi đau của một người làm chứng nhân chia cắt không?”.
Tôi đã may mắn được đi gần như khắp đất nước, được ngắm nhìn những con sông được lịch sử ghi danh và cả những sông suối chẳng ai biết tên. Tất cả tạo nên một diện mạo tổ quốc. Những con sông “vô danh tiểu tốt” đã góp phần chẳng kém gì các con sông danh tiếng lẫy lừng trong hành trình vẽ nên bản đồ Việt Nam. Nếu không có những dòng sông nhỏ bé như Tam Kỳ, thì chắc gì đã có được một cơ đồ hôm nay. Mỗi huân, huy chương gắn trên ngực người còn sống, có rất nhiều mồ hôi, xương máu của những người vô danh. Khi mỗi mái nhà, đêm đêm vẫn còn người trằn trọc với nỗi hoài mong đoàn viên, thì dòng sông nào trên dãy đất này cuồn cuộn hay lặng lờ chảy ra biển cũng mang theo nỗi khắc khoải, chia sẻ cùng người.