Đọc thơ Huy Cận, người ta thường hay nhắc tới những nỗi buồn nhân thế bao la, với những cảm nhận về một thời xưa cũ trong lịch sử dân tộc hay con người. Cái buồn đó chính là cái tình sâu đậm của ông đối với đời, với người. “Thiên cổ sầu” là nỗi buồn bàng bạc, thấm đượm trong từng vần thơ.
Điều này, trong thơ Đường cũng đã có. Cũng trong cảnh mênh mông trời đất, trong cảnh cô đơn và vắng lặng của kiếp người, Trần Tử Ngang viết:
Đăng U Châu đài ca
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi thế hạ
Bài ca lên đài U Châu (Bản dịch của Trần Trọng San)
Ngoảnh lại trước: người xưa vắng vẻ
Trông về sau: quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.
Trong nỗi cô đơn vô cùng của kiếp người, Huy Cận chỉ mới buồn, mới sầu thiên cổ. Trần Tử Ngang thì khóc đấy. Ông đổ nước mắt vì sự bơ vơ của kiếp người.
Nói về sự huyễn nhiệm của vũ trụ, mênh mông của trời đất, Trương Nhược Hư có bài Xuân giang hoa nguyệt dạ là tuyệt tác. Xin trích mấy câu:
Sông và trời, một màu không mảy bụi,
Ngời sáng trong không, vầng trăng trơ trọi
Người bên sông, ai kẻ đầu tiên thấy trăng?
Trăng trên sông, năm nào đầu tiên rọi xuống người?
Người sinh đời đời không bao giờ ngừng
Trăng trên sông năm năm ngắm vẫn y nguyên
Chẳng biết trăng trên sông chiếu sáng những ai
Chỉ thấy sông dài đưa dòng nước chảy
Trần Trọng San dịch:
Trong suốt trời sông suốt một màu,
Trên sông vằng vặc một trăng cao.
Ai người đầu đã trông trăng ấy?
Trăng ấy soi người tự thuở nao?
Người cứ đời đời sinh nở mãi,
Trăng đã năm năm sông nước giãi.
Soi ai nào biết được lòng trăng,
Chỉ thấy sông dài đưa nước chảy.
Tìm về nguyên thuỷ để mà khóc vì thấy nỗi cô đơn của con người.
Vậy thì khi Huy Cận than vãn: “Không gian ơi! Xin hẹp bớt mông mênh” hay “Để cho hồn khi sắp xuống hư vô”, “Xe tang đi về tận thế giới nào?” thì ông không thấy cái mênh mông của vũ trụ, cái hư vô của cuộc đời, cái thế giới vô hình ở một nơi xa xôi nào đó như hai nhà thơ Đường bên Tầu hay sao?
Trần Tử Ngang, Trương Nhược Hư đều nói về vũ trụ, thiên nhiên. Nhưng cái họ nói rất phổ thông: Trời đất mênh mông, trăng, sông, người. Hay thì hay thật, nhưng khác với Huy Cận.
Huy Cận cũng nói tới thiên nhiên, vũ trụ, bên cạnh trời, sông trăng nước, thơ ông có những hình ảnh rất gần gũi, thân quen, kèm với thương, với nhớ, dễ gây xúc động cho người đọc. “Trời rộng sông dài” làm ông bâng khuâng (Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài). Trên sông dài (tràng giang) có sóng. Sóng làm cho người ta nhớ nhà (“Yên ba giang thượng sử nhân sầu” – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai – Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu). Trong thơ Huy Cận thì “sóng buồn điệp điệp” là nỗi buồn tiếp nối nhau không dứt. Trên sông có thuyền xuôi mái chèo. Thuyền đi, (thuyền xuôi), nước buồn (buồn trăm ngả), lại có cành củi khô trôi lạc trên sông.
Thôi Hiệu thấy khói sóng trên sông nên nhớ nhà. Nỗi buồn của Huy Cận sâu sắc hơn, thấm đậm hơn, nên khi không có khói trên sông (yên ba giang thượng), chỉ nhìn thấy sông với hai bờ xa cách, thiếu “niềm thông cảm” (Không cầu nối lại niềm thân mật), nhìn nước chảy, thuyền trôi là ông đã nhớ nhà rồi: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Ngoài những hình ảnh gần gũi đó, còn có chiếc đò ngang trên sông. Nước ta có nhiều sông ngòi nên hình ảnh chiếc đò ngang là rất quen thuộc. Chẳng có cây cầu nối liền hai bờ, nói lên sự ly cách, là đứng ở bờ sông bên nầy, nhìn sang bờ sông bên kia, với những hình ảnh, màu sắc rất quen: Bên sông có bến đò vắng (bến cô liêu), có tiếng người chuyện trò ra về lúc “vãn chợ chiều”, là bãi cát vàng, là bờ dâu xanh, là bãi bắp xanh, là luỹ tre xanh, nối tiếp nhau, kéo dài đến tận chân trời, như trong Kiều “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Tất cả những hình ảnh làng quê nước ta mà ông mô tả như trên, phải là người yêu làng yêu nước mình, mới có những nhận xét tinh tế như thế:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi môt cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sầu chót vót;
Sông dài, trời rộng bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Hình ảnh một ngôi chợ nhỏ, lèo tèo mấy mái tranh là rất quen thuộc ở miền quê nước ta: Chợ họp buổi sáng gọi là “chợ mai”, họp buổi chiều, dĩ nhiên, gọi là “chợ chiều”. Vì việc đồng áng, họp chợ hơi trễ là “chợ hôm” (lúc đầu hôm). Cảnh chợ chiều, nhất là lúc vãn chợ, bao giờ cũng buồn. Huy Cận rất tinh tế, – vã lại ông là người sinh ra lớn lên ở miền quê trước khi đến học ở kinh đô Huế, nên nhận biết cảnh tình đó rất sâu sắc: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Từ những nỗi buồn về vũ trụ, thiên nhiên, Huy Cận buồn cho phận người. Ông đã từng đi tìm cái nguyên lý của phận người, và thất bại. Toàn bộ bài thơ Trình bày là một lời trình bày, đúng hơn là lời kêu than (Để kêu than, khi tôi đã lìa đời), hay trách oán rằng Thượng Đế sinh ra ông, mặc dù ông gìn giữ con người ông rất kỹ, rất đẹp những gì thượng đế ban cho. Nhưng để làm gì khi kết quả của nó chỉ là những đau khổ trần gian. Ông chỉ thấy toàn là nước mắt trong “Những đêm sầu đến chết). Cái thượng đế cho ông là Thân thể. Nhưng thân thể chỉ là những sông núi, ngăn cách, chia biệt người với người. (Tôi đâu biết thịt xương là sông núi, Chia biệt người ra từng xứ cô đơn). Đời người chỉ những gai góc, gian khó (Thủng gai đời), những cô độc (Cô độc đã thầm ghi trên trán), đìu hiu (Hồn tôi đây thiên hạ bỏ đìu hiu).
Thơ Huy Cận có những bài nhắc đến cái chết. Theo ông, chết là gì? Ai rồi cũng “đến ngày nghỉ bước”. Lúc đó người ta nằm im trong huyệt mộ. Thế là không biết gì nữa cả hay sao? Không, Huy Cận thấy đau đớn lắm: “Sẽ nằm im, ôi! Đau đớn chừng nào. Thân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tí” như trong bài thơ “Chết”.
Dù người ta đã chết rồi, Huy Cận vẫn mong thấy được một chút gì “ấm áp” của “Hình dáng cuộc đời từ đây xa tắp.”
Huy Cận rất thương người chết, rất tiếc cho người chết, rồi ông dặn “Và ngựa ơi! Đi nhịp đằm chớ nhảy, Kẻo thân đau chưa quen nệm giường đòi.” Chim không còn vui hót vì “Cây đã gãy vài cành”, đời thêm buồn vì “sao nắng quá mong manh!” Ông dặn dò: “Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơi, Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi.”
Thật ra, nói tới cái chết, tới đám ma với “Sầu chi lắm! Trời ơi! Chiều tận thế” là Huy Cận muốn đặt vấn đề với Thượng Đế.
Những bài thơ nói trên (Thân Thể, Trình Bày, Nhạc Sầu) của Huy Cận chính là quan điểm phản bác tôn giáo của Huy Cận, khi ông ta cầm trái tim mình mà trả lại cho Thượng Đế, và trách oán: (Hỡi Thượng Đế tôi cúi đầu trả lại, Linh hồn tôi là một kiếp đi hoang). Trong viễn tượng đó, phủ nhận Thượng Đế là phủ nhận tôn giáo.
Nhưng với đạo Phật thì sao? Khi Huy Cận đứng trước tượng các vị La Hán ở chùa Tây Phương thì ông ta suy nghĩ điều gì? Có phải cũng là vấn đề tôn giáo xung khắc với thân phận con người như ông ta đã từng trách oán.
Không! Không phải ông ta thiên vị hay “bênh” đạo Phật. Ở đây, ông không có quan điểm tôn giáo mà ngược lại, ông đứng trên quan điểm lịch sử dân tộc.