Site icon donghochetac

“Đồng Chí” – Bức Tranh Tráng Lệ Về Tình Quân Dân Thời Kháng Chiến

Văn chương là lăng kính phản chiếu cuộc đời, không tô hồng hiện thực mà đi sâu vào những cảm xúc chân thật nhất. Bài thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu là một minh chứng rõ ràng, đưa người đọc đến với bức tranh núi rừng biên giới, nơi tình đồng chí đồng đội tỏa sáng giữa gian khó. Nhiều người có ý kiến cho rằng bài thơ Đồng Chí là một bức tranh tráng lệ, và điều này hoàn toàn có cơ sở.

Chính Hữu, nhà thơ chiến sĩ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả qua những vần thơ giản dị mà hàm súc về chiến tranh và người lính. “Đồng Chí”, sáng tác năm 1948, dựa trên trải nghiệm của tác giả và đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, là một trong những tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất của ông.

Với thể thơ tự do, ngôn ngữ đời thường, “Đồng Chí” khắc họa chân thực hình ảnh người lính thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp và tình đồng chí keo sơn, gắn bó.

Bằng ngòi bút tài hoa, giọng điệu tâm tình và ngôn ngữ giản dị, Chính Hữu dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn của tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày sỏi đá”

Hai câu thơ song hành, sử dụng thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua” và cách diễn đạt sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá” gợi lên khung cảnh những vùng quê nghèo khó. Một người lính đến từ miền biển, nơi “nước mặn đồng chua”, người kia từ miền trung du, “đất cày lên sỏi đá”. Phải chăng, chính hoàn cảnh xuất thân tương đồng đã tạo nên nền tảng cho tình đồng chí nảy nở?

Alt: Lính kể chuyện quê, đồng cảm tạo tiền đề tình đồng chí

“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”

Cùng chung cảnh ngộ, cùng lý tưởng đánh giặc cứu nước, các anh gia nhập đội ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến trường kỳ là nơi hội tụ những trái tim yêu nước, biến những người xa lạ thành quen thuộc: “anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

Có lẽ, cuộc sống chiến đấu gian khổ đã gắn kết họ:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Hai câu thơ vừa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích, luôn sát cánh bên nhau trong mọi hiểm nguy. “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ, “đầu sát bên đầu” là chung chí hướng, lý tưởng. Chính Hữu sử dụng các từ “sát, bên, chung” để gợi sự sẻ chia, đồng điệu. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp, thể hiện sự sẻ chia những gian lao, thiếu thốn, vun đắp tình đồng chí. Tấm chăn tuy mỏng nhưng chứa đựng tình đồng đội ấm áp. Từ tri kỉ, họ trở thành những người “đồng chí”.

“Đồng chí!” là một câu thơ đặc biệt, như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí, mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung lý tưởng, vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là cội nguồn sức mạnh giúp người lính vượt qua gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” giản dị mà cảm động, làm bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.

Mười câu thơ tiếp theo tiếp tục khắc họa biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

Trải qua gian khổ, tình đồng chí giúp các anh thấu hiểu, sẻ chia nỗi lòng:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Ba câu thơ với giọng thủ thỉ, hình ảnh giản dị cho thấy những người lính vốn là những người nông dân gắn bó với quê hương. Nhưng khi Tổ quốc cần, họ sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất. Các anh ra đi, để lại tình yêu quê hương trong tim, nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Tuy vậy, hình ảnh quê hương vẫn in đậm trong tâm trí: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ kết hợp nhân hóa tạo nên nỗi nhớ hai chiều: quê hương nhớ người lính, người lính nhớ quê hương. Nỗi nhớ ấy tiếp thêm sức mạnh để họ chiến đấu giành độc lập.

Alt: Giếng nước gốc đa, hình ảnh biểu tượng cho nỗi nhớ quê hương của người lính

Không chỉ thấu hiểu, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi “anh – tôi”, “áo anh – quần tôi” tạo sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh. Trong thiếu thốn, các anh cùng chia sẻ ốm đau, bệnh tật, cùng trải qua những cơn sốt rét rừng, chia sẻ vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu thương “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. “Miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan xua tan đi sự khắc nghiệt. Cái bắt tay chuyền hơi ấm, động viên nhau vượt qua khó khăn.

Alt: Bàn tay nắm chặt, sẻ chia và động viên đồng đội vượt gian khó

Chính Hữu đã vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa hoàn cảnh khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”

Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp, căng thẳng. Từ “chờ” thể hiện tư thế chủ động của người lính, của toàn dân ta.

Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm khuya, người lính đứng gác, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng. Súng là biểu tượng của cuộc chiến đấu gian khổ, hy sinh, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình. Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ. Ánh trăng tràn ngập núi rừng, tâm hồn người chiến sĩ cũng nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, hướng về tương lai tươi sáng.

Alt: Đầu súng trăng treo, biểu tượng hòa quyện giữa chiến đấu và lãng mạn

Như vậy, “Đồng chí” là một khúc ca trong trẻo về tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó, với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.

Chính Hữu đã đưa hiện thực vào trang viết một cách tự nhiên, đồng thời đặt vào bức tranh ấy viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi, khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng độc giả, khẳng định ý kiến cho rằng bài thơ Đồng chí là một bức tranh tráng lệ là hoàn toàn xác đáng.

Exit mobile version