Trong năm Quang Thái triều Trần, Từ Thức, người Hóa Châu, nhờ ấm đức cha được bổ làm Tri huyện Tiên Du. Gần huyện có ngôi chùa nổi tiếng, trồng cây mẫu đơn quý. Đến mùa hoa nở, khách thập phương nô nức trẩy hội. Tháng hai năm Bính Tý, một thiếu nữ tuổi trăng tròn, nhan sắc khuynh thành đến ngắm hoa. Chẳng may, cành hoa giòn gãy, nàng bị giữ lại. Từ Thức động lòng trắc ẩn, cởi áo cừu gấm trắng chuộc lỗi cho nàng. Tiếng thơm quan huyện lan xa.
Vốn tính Từ Thức thích rượu, đàn, thơ, cảnh đẹp, công việc bỏ bê, bị quan trên quở trách. Từ than rằng không thể vì chút bổng lộc mà trói mình vào vòng danh lợi, bèn trả ấn từ quan, về ở ẩn tại động Tống Sơn. Chàng thường mang bầu rượu, đàn, thơ Đào Uyên Minh, ngao du sơn thủy.
Một hôm, Từ Thức ra biển Thần Phù, thấy đám mây ngũ sắc như hoa sen nở, bèn chèo thuyền ra xem. Trước mắt chàng hiện ra một hòn núi tuyệt đẹp.
Từ kinh ngạc hỏi lái thuyền, chẳng biết núi từ đâu hiện ra. Chàng bèn lên bờ, thấy vách đá dựng đứng.
Chàng đề thơ:
Triêu dương bóng rải khắp ngày xanh,
Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.
Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,
Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.
Lang thang đất lạ đàn ba khúc,
Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.
Bến Vũ chàng ngư, tìm thử hỏi,
Thôn Đào chỉ hộ lối loanh quanh.
Đề xong, chàng ngắm nghía đợi chờ. Bỗng vách đá nứt ra một cái hang. Chàng vén áo bước vào, hang đóng sập lại, tối tăm mù mịt. Chàng mò mẫm theo khe đá, đi mãi rồi cũng thấy đường ra. Lên đến đỉnh núi, cảnh tượng hiện ra thật huy hoàng tráng lệ.
Hai thiếu nữ áo xanh ra đón, bảo là “Lang quân nhà ta đã đến!”. Các nàng dẫn chàng vào cung điện bạc, thấy bà tiên áo trắng ngồi trên giường thất bảo. Bà tiên trách Từ Thức tính hiếu kỳ, nhưng cũng khen chàng đã thỏa nguyện bình sinh. Bà hỏi chàng còn nhớ duyên gặp gỡ xưa kia không.
Từ Thức thưa rằng mình chỉ là kẻ dật sĩ, nay được đến đây chẳng khác nào bay lên cõi tiên. Chàng xin bà tiên chỉ bảo.
Bà tiên cười bảo rằng đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ sáu trong ba mươi sáu động. Bà là Ngụy phu nhân, địa tiên ở Nam nhạc. Thấy Từ Thức là người cao nghĩa, cứu giúp người gặp nạn, nên mới mời chàng đến đây.
Bà tiên sai gọi một cô tiên ra. Từ Thức nhận ra chính là người bẻ gãy cành hoa năm xưa. Bà tiên bảo rằng con gái bà tên là Giáng Hương, muốn kết duyên để báo đền ơn chàng.
Đêm ấy, hai người làm lễ thành hôn. Hôm sau, quần tiên đến mừng. Tiệc yến bày ở gác Dao Quang. Mọi người đều kính cẩn nghênh đón Kim tiên đến. Tiệc bày toàn món ăn lạ, rượu quý hiếm.
Người áo gấm trắng nói rằng họ chơi ở đây đã tám vạn năm, bể Nam đã ba lần tung bụi. Nay Từ Thức đến đây, không vì tiên phàm mà cách trở.
Rồi có người múa điệu Lăng Ba. Phu nhân mời tiệc, Giáng Hương rót rượu. Người bận xiêm lụa trêu ghẹo Giáng Hương.
Người mặc áo xanh buồn rầu nói rằng Giáng Hương kết duyên với người trần e sẽ bị thiên hạ chê cười.
Bà Kim tiên nói rằng những kẻ hiếu sự còn bịa ra chuyện bà gặp vua Chu Mục Vương, vua Hán Vũ Đế, huống chi là chuyện của các nàng.
Bà phu nhân nói rằng những cuộc gặp gỡ hiếm lạ đời nào mà không có, nếu bị chê cười thì đã có người trước chịu tiếng cười cho mình.
Mọi người cùng phá lên cười. Đến chiều, khách khứa giải tán. Từ Thức trêu Giáng Hương rằng cõi tiên cũng có chuyện phối ngẫu.
Nàng đổi sắc mặt nói rằng những người kia là khí huyền nguyên, tính chân nhất, không như nàng bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh. Nàng xin Từ Thức đừng vì một mình nàng mà cho tất cả quần tiên đều thế.
Từ Thức nói nếu thế thì nàng còn thua các tiên kia xa lắm.
Vợ chồng cùng vỗ tay cười.
Từ Thức thường đề thơ lên bức bình phong trắng:
Khói rợp mây che khắp bốn trời,
Non Thần trong sáng đó là nơi.
Hoa thông theo gió đưa hương ngát,
Dắt dẫn thuyền câu khách một người.
II
Một đêm gió thổi nguyệt đầy non,
Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son.
Rượu mệt mê say người nặng trĩu,
Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.
III
Đốt lại lò trầm nhóm lại hương,
Đắn đo đổi mới khúc nghê thường,
Bài thành không dám cất cao tiếng,
E gió mưa về ẩm một phương.
IV
Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu,
Cung tường cao vút vắng teo teo,
Trăng sao dường mọc quanh bên mái,
Tần nữ đêm dài học thổi tiêu.
V
Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu,
Mận, Quế phương trời ngút tận đâu.
Xuân muộn con chim bay lạc lõng,
Vòm không quang sạch biếc làu làu.
VI
Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung,
Gương võ vàng soi luống thẹn thùng.
Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp,
Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.
VII
Khí lành quanh quất phủ buồng xuân,
Phương trượng non xa, Nhược thủy gần
Dứt tiếng canh đà trời sắp sáng,
Lòng quê theo rõi áng mây Tần.
VIII
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài,
Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài.
Đạo sĩ một đi tìm khó thấy,
Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Sóng nước bao quanh núi một vùng,
Mộng về quê cũ lối không thông.
Mây vàng nước biếc thân nương đậu,
Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi,
Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi.
Lưu Lang biệt động sao khờ mấy,
Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi.
Từ khi bỏ nhà đi đã một năm, ao sen đã đổi màu. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, chàng chạnh lòng nhớ quê. Một hôm, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam, Từ Thức xin phép Giáng Hương cho mình được về thăm quê.
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ Thức hứa sẽ trở lại. Giáng Hương khóc mà nói rằng cõi trần nhỏ hẹp, kiếp người ngắn ngủi, e rằng mọi thứ đã đổi thay.
Nàng thưa với phu nhân, phu nhân cho Từ Thức một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa.
Chỉ chốc lát, chàng đã về đến nhà, thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian đều không như trước nữa. Chàng hỏi thăm những người già, được biết có người cụ tam đại nhà họ cũng tên như chàng, đi vào núi mất tích đã hơn tám mươi năm.
Bấy giờ Từ Thức mới bùi ngùi hậm hực, muốn lên xe mây trở lại, nhưng xe đã hóa thành chim loan bay mất. Mở thư ra, chàng thấy dòng chữ: “Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!”. Chàng biết Giáng Hương đã biết trước sự ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi không ai biết đi đâu mất.
Than ôi, Chuyện Từ Thức Lấy Vợ Tiên, thực hư khó phân. Có lẽ có âm đức thì ắt có dương báo, cũng là lẽ thường.