Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ suốt đời kiếm tìm cái đẹp, đã ghi dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông không chỉ nâng tầm tùy bút, bút ký mà còn làm giàu ngôn ngữ văn học dân tộc bằng phong cách tài hoa, độc đáo. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là minh chứng rõ nét cho điều đó, đặc biệt là đoạn trích miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà, một vẻ đẹp được khám phá bằng con mắt tinh tường của nhà văn sau Cách mạng tháng Tám.
“Người lái đò Sông Đà”, trích từ tập tùy bút “Sông Đà”, là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc, nơi Nguyễn Tuân tìm kiếm “chất vàng mười” trong tâm hồn những người lao động bình dị. Đoạn trích “hùng vĩ… cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn” tập trung khắc họa vẻ đẹp độc đáo của dòng sông, không chỉ ở sự hung bạo mà còn ở sức mạnh phi thường.
Sông Đà hiện lên với vẻ hung bạo, dữ dằn qua những hình ảnh đầy ám ảnh.
Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành” gợi lên sự vững chãi, thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn. Những chi tiết tưởng chừng ngẫu nhiên như “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” hay “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” lại có giá trị gợi tả gián tiếp về độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá.
Cách so sánh “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” với động từ “chẹt” càng nhấn mạnh sự hẹp của lòng sông. Nguyễn Tuân còn khéo léo sử dụng cảm giác để miêu tả thế giới sự vật, tạo ấn tượng tương phản của xúc giác khi “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Sự kết hợp giữa xúc giác và thị giác, giữa hè phố và mặt sông, giữa nhà cao và vách đá, đã truyền cho người đọc những hình dung chân thực về cái tăm tối, lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi vào khúc sông có đá dựng vách thành.
“Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Câu văn miêu tả nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ điệp nối tiếp thế chỗ nhau đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh.
Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng “lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy” đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. Qua từ “nợ xuýt”, Nguyễn Tuân đóng góp thêm vào từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc đáo, mang ý nghĩa đòi nợ không bằng tiền, bằng tình mà bằng mạng sống.
Những “cái hút nước” trên sông Đà cũng được miêu tả đầy ấn tượng.
Những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước hiện ra như một “cái giếng bê tông” xoáy tít, trong âm thanh của một “cửa cống cái bị sặc”, trong cả hình ảnh và âm thanh như mặt nước bị “rót dầu sôi”.
Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so sánh nhân hóa khi miêu tả nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ.
Hình ảnh liên tưởng đến “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước. Nguyễn Tuân còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay chiếc thuyền bị hút “trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi… tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Không chỉ dừng lại ở những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của “một thành giếng xây toàn bằng nước” cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một “khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.
Tóm lại, qua việc tả sự hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà còn nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước.
Nguyễn Tuân đã sử dụng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; từ ngữ phong phú, sống động, tinh tế, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình; ngôn ngữ giàu tính tương phản, đối lập để khắc họa sông Đà.
Nhà văn nhìn sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh đầy ấn tượng.
Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác, lịch lãm và độc đáo ở phong cách, tri thức sâu sắc và phong phú, tâm hồn phóng khoáng yêu tự do và thiên nhiên đất nước, luôn nhìn thấy ở thiên nhiên những vẻ đẹp chưa từng có và tiếp cận thiên nhiên ở những góc nhìn độc đáo. Hình tượng sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đoạn trích về sông Đà không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà còn là một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đặc sắc, thể hiện tài năng và tâm huyết của Nguyễn Tuân trong việc khám phá vẻ đẹp đất nước và con người Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Tùy bút đã góp phần khẳng định vị thế của Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam hiện đại.