Việc giáo dục về “Các Mối Quan Hệ Trong Gia đình” cho thế hệ trẻ là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận và nội dung giảng dạy cần được xem xét kỹ lưỡng để tránh áp đặt và bảo tồn sự phong phú của ngôn ngữ Việt.
Hình ảnh gia đình Việt Nam sum họp, thể hiện sự gắn kết giữa các thế hệ.
Cách xưng hô trong gia đình không chỉ là vấn đề ngôn ngữ mà còn là một phần của văn hóa, phản ánh lịch sử và tập quán của từng vùng miền. Sự đa dạng này cần được trân trọng và gìn giữ.
Cách xưng hô trong gia đình Việt Nam:
1. Bên Nội:
- Ông bà nội: Cha mẹ của ba.
- Ba, bố: Người sinh ra mình.
- Bác (trai): Anh trai của ba.
- Bác (gái): Chị gái của ba.
- Cô: Em gái của ba.
- Chú: Em trai của ba.
- Thím: Vợ của chú.
- Dượng: Chồng của cô.
- Bác (gái): Vợ của bác trai.
- Bác (trai): Chồng của bác gái (chị ba).
2. Bên Ngoại:
- Ông bà ngoại: Cha mẹ của mẹ.
- Mẹ: Người sinh ra mình.
- Bác (trai): Anh trai của mẹ.
- Bác (gái): Chị gái của mẹ.
- Cậu: Em trai của mẹ.
- Dì: Em gái của mẹ.
- Mợ: Vợ của cậu.
- Dượng: Chồng của dì.
- Bác (gái): Vợ của bác trai (anh mẹ).
- Bác (trai): Chồng của bác gái (chị mẹ).
Cách xưng hô này có thể khác nhau tùy theo vùng miền. Ví dụ:
- Miền Bắc: Ưu tiên thứ bậc tuổi tác, thường gọi anh chị của ba mẹ là “bác”, em là “cô”, “chú”, “cậu”, “mợ”.
- Miền Nam: Ưu tiên quan hệ huyết thống, gọi chị em của ba là “cô”, “dì”, anh em của mẹ là “cậu”, “dì”.
Sự Khác Biệt Vùng Miền và Tầm Quan Trọng Của Việc Giữ Gìn Bản Sắc:
Sự khác biệt trong cách xưng hô giữa các vùng miền không phải là điều sai trái, mà là minh chứng cho sự phong phú của văn hóa Việt Nam. Việc áp đặt một cách xưng hô duy nhất có thể dẫn đến mất mát bản sắc văn hóa.
Thứ nhất, đối với các bậc ông bà:
- Bậc bề trên nói chung:
- Ông bà tổ tiên.
- Gọi theo thứ tự đời:
- Ông bà cố tổ, tằng tổ, cao tổ.
- Cha mẹ của cha hoặc của mẹ:
- Ông bà nội hoặc ông bà ngoại.
- Cha mẹ, Anh chị em của ông bà:
- Cha mẹ của ông bà được gọi là “ông/bà cố nội”, hoặc “ông/bà cố ngoại”. (miền Bắc gọi là cụ nội, cụ ngoại).
- Anh chị em của ông, bà thì sẽ tuỳ theo thứ bậc với ông, bà mình mà gọi là “ông bác” (tức là bác của cha hoặc mẹ mình), “bà bác”, “ông chú”, “bà cô”, “bà dì”, “ông cậu”…
- Xưng hô với các bậc này thì dùng chữ “cháu”. Ở ngôi thứ ba, tương quan với bậc từ cố trở lên thì gọi là chắt, chít.
Thứ hai, đối với bậc cha mẹ, con cái và anh chị em:
- Cha:
- Miền Bắc gọi cha, bố, thầy.
- Miền Nam gọi cha, ba, tía.
- Miền Trung gọi ba, cha.
- Mẹ:
- Miền Bắc gọi mẹ, me, u, bu, đẻ, cái, mợ.
- Miền Nam gọi mẹ, má.
- Miền Trung gọi mẹ, má, mạ.
- Anh:
- Cả ba miền gọi anh.
- Người anh đầu người Bắc gọi là anh cả, người Nam và Trung gọi là anh hai.
- Chị:
- Cả ba miền gọi chị.
- Miền Bắc, chị đầu gọi là chị cả. Miền Nam, miền Trung: Chị đầu gọi là chị hai.
- Em trai, em gái:
- Cả ba miền đều gọi em.
- Chồng chị và chồng em gái gọi là anh rể và em rể. Vợ anh trai và vợ em trai thì gọi là chị dâu và em dâu.
- Vợ con trai mình gọi là con dâu, chồng con gái mình gọi là con rể.
- Cha, mẹ, anh, chị em của chồng gọi là cha chồng, mẹ chồng, chị chồng, anh chồng, em chồng. Cha, mẹ, anh, chị, em của vợ gọi là cha vợ, mẹ vợ, anh vợ, chị vợ và em vợ. Khi xưng hô với nhau giữa hai người thì các chữ rể, dâu, chồng, vợ sẽ mất đi.
Thí dụ:
- Con dâu nói với mẹ chồng: Con xin phép mẹ!
- Hoặc cha vợ nói với con rể: Cha nhờ con việc này!
- Khi nói với người thứ ba thì thêm rể/dâu/cha chồng/mẹ chồng… tôi như: Con rể tôi, con dâu tôi; cha chồng tôi, mẹ vợ tôi…
- Cha mẹ gọi con ruột mình là con. Nhưng người Bắc thường xưng hô với con trai cùng con gái đã lớn tuổi của mình bằng anh và cô.
- Chồng gọi vợ là em, mình, bà xã. Vợ gọi chồng bằng anh, mình, ông xã. Khi đã có con cái thì lúc gọi nhau là ba, mẹ, hay ba thằng cu, má con gái…
- Chồng của mẹ, không phải là cha ruột mình thì gọi là dượng.
- Vợ của cha, mà không phải mẹ ruột mình thì gọi là dì (dì ghẻ), nếu là vợ chính của cha, trong chế độ gia đình xưa thì gọi là mẹ.
Thứ ba đối với bậc anh chị em của cha mẹ, anh chị em họ:
- Anh của cha:
- Cả ba miền gọi bác.
- Vợ của anh cha:
- Cả ba miền gọi bác (bác gái).
- Em trai của cha:
- Cả ba miền gọi chú.
- Chị của cha:
- Miền Bắc gọi là bác.
- Miền Trung gọi cô, o.
- Miền Nam gọi cô.
- Chồng chị của cha:
- Miền Bắc gọi bác.
- Miền Trung và Nam gọi dượng.
- Chồng em gái của cha:
- Miền Bắc gọi là chú.
- Miền Nam và Trung gọi dượng.
- Anh trai của mẹ:
- Miền Bắc gọi bác.
- Miền Nam và Trung gọi cậu.
- Vợ anh trai của mẹ:
- Miền Bắc gọi bác.
- Miền Trung và Nam gọi mợ.
- Em trai của mẹ:
- Cả ba miền gọi cậu.
- Vợ em trai của mẹ:
- Cả ba miền gọi mợ.
- Chị của Mẹ:
- Miền Bắc gọi bác.
- Miền Trung và Nam gọi dì.
- Chồng chị của mẹ:
- Miền Bắc gọi bác.
- Miền Trung và Nam gọi dượng.
- Em gái của Mẹ:
- Cả ba miền gọi dì.
- Chồng em gái của mẹ:
- Miền Bắc gọi chú.
- Miền Trung và Nam gọi dượng.
- Anh chị em họ:
- Cả ba miền vẫn gọi là anh, chị, em như anh chị em ruột. Trường hợp người vai anh/chị nhỏ tuổi hơn nhiều so với người vai em thì gọi người vai em là chú/cô/cậu/dì (tức chú em, cô em, cậu em, dì em).
- Bác, chú, cô, o, cậu, mợ, dì, dượng… gọi các con anh em mình bằng cháu. Trong cách xưng hô với anh chị em của cha mẹ, người Bắc ưu tiên tuổi tác khi gọi anh, chị cha và mẹ là bác, và cấp nhỏ là chú cậu, cô mợ và không dùng chữ dượng.
Người Nam và Trung ưu tiên về nội ngoại, thân sơ. Dì thì luôn bên ngoại dù tuổi lớn hay nhỏ; cô hoặc o thì luôn bên nội dù chị hay em của cha. Chú thì chỉ dùng cho em cha, thuộc bên nội thôi. Người không dòng máu cha mẹ thì gọi là dượng, mợ, thím để phân biệt với bác, chú, cô o, cậu là anh em ruột thịt. Chỉ có cách gọi bác gái vợ anh trai của cha là một ngoại lệ.
Giáo Dục Mở Về Các Mối Quan Hệ Gia Đình:
Thay vì áp đặt, giáo dục nên tập trung vào việc:
- Giới thiệu sự đa dạng của cách xưng hô trong gia đình ở các vùng miền khác nhau.
- Giải thích ý nghĩa và nguồn gốc của các cách xưng hô.
- Khuyến khích học sinh tìm hiểu về cách xưng hô trong gia đình mình và cộng đồng xung quanh.
- Tạo điều kiện cho học sinh tự do tư duy và lựa chọn cách xưng hô phù hợp với hoàn cảnh gia đình và văn hóa địa phương.
Lời kết:
“Các mối quan hệ trong gia đình” là một chủ đề quan trọng trong giáo dục và văn hóa. Việc tiếp cận chủ đề này một cách cởi mở và tôn trọng sự đa dạng sẽ giúp thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về bản sắc văn hóa Việt Nam và xây dựng những mối quan hệ gia đình bền vững.