Cá Trê Dừa: Biến Thể Kỳ Lạ và Những Câu Chuyện Thú Vị Ở Miền Tây

Cá trê là loài cá quen thuộc ở vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Bên cạnh những loại cá trê thường thấy, ít ai biết đến một biến thể đặc biệt mang tên Cá Trê Dừa. Chúng không chỉ lớn hơn về kích thước mà còn ẩn chứa nhiều câu chuyện thú vị xoay quanh tập quán sinh sống và cách đánh bắt độc đáo.

Ngày xưa, khi lúa mùa còn là cây trồng chủ lực, ruộng đồng mênh mông nước tạo điều kiện cho cá trê sinh sôi nảy nở. Từ đó, câu thành ngữ “Cạn đìa mới biết lóc trê” ra đời, ngụ ý về sự gắn bó mật thiết giữa loài cá này với đời sống người dân nơi đây.

Cá trê vốn là loài cá da trơn nước ngọt phổ biến ở Đông Nam Á. Với bà con nông dân, việc phân loại cá trê thường dựa vào hình dáng và màu sắc đặc trưng. Do đặc tính dễ lai giống, việc xác định chính xác tên gọi của từng loại đôi khi gặp khó khăn. Chẳng hạn, cá trê đen và cá trê trắng có nhiều điểm tương đồng nên thường được gọi chung là trê trắng.

Tuy nhiên, có một loại cá trê nổi bật hơn cả về kích thước và độ hiếm, đó chính là cá trê dừa. Cá trê dừa trưởng thành có thể dài hơn hai gang tay người lớn, da màu đồng sậm và nặng trên 1kg. Mặc dù có nhiều nét tương đồng với cá trê trắng, nhưng người dân địa phương vẫn dành riêng cho chúng cái tên “cá trê dừa” để phân biệt.

Sau ngày giải phóng, cá trê phi du nhập từ Châu Phi, trở thành một “người bạn” mới của họ nhà cá trê. Tuy có kích thước lớn, nhưng thịt cá trê phi không ngon bằng các loại cá trê bản địa nên dần mất đi vị thế. Từ cá trê phi, các nhà nhân giống đã lai tạo ra một loài cá lai khá hấp dẫn, đó là trê vàng lai, với mẹ là cá trê vàng và cha là trê phi.

Cá trê vàng lai khi còn nhỏ khá giống cá mẹ, được các bà nội trợ ưa chuộng. Tuy nhiên, khi lớn lên, chúng lại mang nhiều đặc điểm của cá cha nên chỉ xuất hiện trên thị trường với kích thước vừa phải.

Một điều thú vị là ngày nay, trên thị trường cá kiểng cũng xuất hiện nhiều loại cá trê nuôi làm cảnh, với màu sắc đa dạng từ trắng đến hồng, cam…

Ở Sóc Trăng, có một anh cá trê “khủng” nổi tiếng được nuôi tại Phước Đức Cổ Miếu (xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên). Con cá này được một thợ câu bắt được ở sông Mỹ Thanh (xã Vĩnh Châu) với trọng lượng lên đến 4kg. Vì thấy cá quá lớn, anh đã đem tặng cho miếu nuôi và hiện nay, cá đã nặng hơn 5kg.

Cá trê thường kéo nhau lên đồng sớm nhất khi trời mưa xuống, nhiều con mang theo bụng đầy trứng. Khi các đám mưa cuối mùa sắp dứt, chúng lại rủ nhau về sông và các ao mương.

Trên những cánh đồng sâu cấy lúa mùa, vào những ngày giáp Tết, người dân đi cắt lúa thỉnh thoảng bắt được cả nón lá tôm càng xanh còn sót lại. Ở những hầm bắt cá cạn thì đầy rẫy cá lóc, nhưng lại ít khi thấy cá trê, trong khi ở sông và các ao mương thì chúng lại rất nhiều.

Cá trê trắng từng rất nhiều ở ĐBSCL, nhưng sau ngày giải phóng, do dịch ghẻ và việc trồng lúa hai vụ tràn lan, môi trường sống của chúng bị thu hẹp đáng kể. Do đó, mật độ cá trê trắng trong tự nhiên giảm hẳn và đến nay, chúng trở thành một đặc sản quý hiếm.

Điểm đặc biệt của cá trê trắng là chúng thường sống thành đàn, có khi lên đến cả trăm con. Vì vậy, ngoài những cách đánh bắt thông thường như câu, lưới hay chài, người ta còn có những cách săn cá trê trắng độc đáo.

Một trong những cách bắt cá trê độc đáo là “giậm dấu”. Người ta chọn một khúc sông không sâu lắm, dùng chân ấn xuống đáy sông tạo thành những cái “dấu” hình chữ L. Sau đó, khuấy động mặt nước để cá hoảng hốt trốn vào các dấu và sụp bẫy. Tuy nhiên, cách bắt này đòi hỏi kinh nghiệm, vì nếu không khéo, người bắt có thể bị ngạnh cá đâm vào tay.

Ngoài ra, người ta còn săn cá trê đàn bằng cách tìm hang của chúng. Cá trê thường ẩn mình trong hang vào ban ngày và đi kiếm ăn theo đàn vào ban đêm. Việc đào hang bắt cá có thể gặp nhiều khó khăn, vì hang có thể đi vòng vèo quanh gốc cây lớn. Theo kinh nghiệm của những người đào hang cá, cá trê thường tập trung ở một chỗ trống trong đất gọi là “nồi gọ”, nơi có một ít nước bùn sền sệt và lỗ thông khí.

Trong kháng chiến chống Mỹ, người dân còn học theo cách đào hang của cá trê để làm hầm bí mật. Hầm bí mật kiểu “hầm cá trê” không có nắp, lối vào là một hang bắt đầu từ nơi có nhiều nước như ao hay mương thông với “nồi gọ” có lỗ thông khí để người ẩn thân.

Vào mùa nước nổi, người dân thường dùng một dụng cụ gọi là bung để bắt cá trê. Bung có hình dáng giống như xà ngôn, nhưng được đặt ở những nơi cá hay lui tới như mé sông rạch hay bờ ruộng và cần có mồi để dẫn dụ cá vào.

Một cách bắt cá trê đàn đặc biệt khác là dùng nôm cá. Nôm để bắt cá trê đàn phải lớn hơn nôm cá bình thường và có một tấm màng bằng vải chắc chắn hình tròn, có khoét lỗ tròn ở giữa và may rãnh để luồn dây rút. Khi phát hiện đàn cá đi ăn đêm, người săn phải đón đầu chúng và úp nôm trùm lên đàn cá. Sau đó, điều chỉnh dây rút để thu hẹp lỗ tròn, dụ cá chui lên và bắt gọn cả đàn.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *