Nguyễn Du vận dụng Bút Pháp ước Lệ một cách tài tình để khắc họa tâm trạng nhân vật và diễn tả những tình huống đặc biệt trong Truyện Kiều. Một trong những minh chứng rõ nét nhất là cảnh Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh.
Thường lệ, khi chia tay người ta thường níu giữ áo nhau, thể hiện sự quyến luyến, bịn rịn. Chi tiết “níu áo” đã trở thành một hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân ca. Trong cảnh chia ly với Thúc Sinh, Kiều cũng có hành động tương tự. Nhưng Nguyễn Du lại đảo ngược trật tự thông thường: “Người lên ngựa, kẻ chia bào”. Sự đảo ngược này không chỉ diễn tả nỗi lưu luyến mà còn khắc họa sâu sắc tâm trạng lo lắng của Kiều. Nàng muốn níu giữ Thúc Sinh đến giây phút cuối cùng. Dù Kiều khuyên Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư để mong cầu cuộc sống yên ổn, nhưng nàng vẫn đầy lo sợ. Nàng lo sợ mất đi chỗ dựa duy nhất, sợ lại rơi vào cảnh bơ vơ nơi đất khách quê người. Chính vì vậy, nàng cố níu giữ chàng ngay cả khi chàng đã lên ngựa. Bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã diễn tả trọn vẹn cái tâm trạng ngổn ngang trăm mối của nàng Kiều.
Rừng phong với lá đỏ vào mùa thu là một hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển Trung Hoa. Cái màu đỏ của lá phong mang tính ước lệ tượng trưng cho sự chia ly, ly biệt. Nguyễn Du đã biến hóa hình ảnh này thành “màu quan san”, gợi lên sự xa xôi, cách trở. Kiều tiễn Thúc Sinh khi mới chớm thu, lá phong đang dần chuyển màu. Nhưng việc “nhuốm màu quan san” lại vô cùng phù hợp với tâm trạng lo lắng, bất an của Kiều lúc bấy giờ. Sự thay đổi từ “nhuộm” sang “nhuốm” càng làm tăng thêm sự xa xôi, cách trở, thể hiện dụng ý nghệ thuật sâu sắc của Nguyễn Du.
Thúc Sinh đi rồi, Kiều đứng nhìn theo mãi: “Dặm hồng bụi cuốn chinh an/ Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh”. Cảnh “dặm hồng bụi cuốn” thường được dùng để miêu tả đoàn quân ra trận. Nguyễn Du lại dùng hình ảnh này để tả cảnh Thúc Sinh về Vô Tích gặp Hoạn Thư. Theo logic thông thường, điều này có vẻ không phù hợp. Nửa năm ân ái với người đẹp, giờ chia tay, Thúc Sinh có lẽ chỉ phi nước kiệu. Sao lại có chuyện “bụi cuốn” mù trời? Ngay cả khi chia tay Hoạn Thư, Thúc Sinh “thẳng ruổi nước non quê người” cũng không thấy Nguyễn Du miêu tả một tý bụi nào.
Nhưng đây chính là cảnh được nhìn qua tâm trạng đầy lo âu của Kiều. Nàng cảm thấy Thúc Sinh như đang đi vào nơi đầy gió bụi, chẳng khác gì ra trận. Bởi vì chàng sắp phải đối diện với Hoạn Thư, một cuộc chiến không cân sức giữa người chồng nhu nhược và bà vợ đầy uy quyền và mưu mô. Qua chi tiết tưởng như bình thường này, Nguyễn Du đã thể hiện dụng ý nghệ thuật sâu sắc, cho thấy sự lo lắng tột cùng của Kiều. Đây là một ví dụ điển hình của bút pháp ước lệ trong Truyện Kiều.
Sau khi tiễn đưa Thúc Sinh, Kiều trở về trong cô đơn: “Người về chiếc bóng năm canh/ Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”. Nàng ngẩng lên trời và hoảng hốt: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi…”. Vầng trăng đầu tháng cũng được nhìn qua tâm trạng của Kiều. Nàng đang linh cảm về sự chia lìa, “tan đàn xẻ nghé”.
Nhưng trăng của Nguyễn Du dù bị xẻ làm đôi vẫn không chia lìa: “Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. Phải chăng, nhà thơ mượn hai nửa vầng trăng để bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc trước cảnh chia ly của Thúc Sinh – Thúy Kiều? Và phải chăng đó cũng là mong muốn của Kiều, nàng muốn một nửa trăng giúp Thúc Sinh thấu hiểu tâm trạng cô đơn của mình, một nửa kia soi đường cho chàng? Qua trí tưởng tượng của Kiều, con đường Thúc Sinh đang đi đầy gió bụi, chông gai, nàng ước ao được ở bên cạnh chàng.
Nguyễn Du đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh có tính ước lệ hết sức quen thuộc, biến hóa chúng thành những chi tiết nghệ thuật độc đáo, mới lạ. Nếu chỉ nhìn bằng con mắt logic thông thường, người đọc có thể dễ dàng bắt bẻ nhà thơ. Nhưng sáng tạo nghệ thuật có quy luật riêng của nó. Cái tưởng như phi lý lại trở nên vô cùng có lý nếu ta hiểu được dụng ý của tác giả. “Lạ hóa” bút pháp ước lệ chính là một trong những biệt tài của Nguyễn Du. Càng đọc, càng nghiền ngẫm Truyện Kiều, người đọc càng khám phá ra nhiều điều mới mẻ trong thế giới nghệ thuật đa dạng của ông.