Site icon donghochetac

Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ: Huyền Thoại và Thực Tế

Vùng U Minh Hạ từ lâu đã nổi tiếng với những cánh rừng tràm bạt ngàn, hệ sinh thái phong phú và không thể không nhắc đến loài “thủy quái” cá sấu. Khác với những nơi sông sâu nước chảy, cá sấu U Minh Hạ lại ưa thích tìm đến những ngọn rạch nhỏ, nơi yên tĩnh và chật hẹp trong rừng tràm. Tại sao lại như vậy?

Sấu U Minh Hạ thản nhiên phơi mình trên bờ đất, một hình ảnh quen thuộc trong ký ức người dân địa phương, nơi cá sấu và con người cùng chia sẻ không gian sống.

Mặc dù được biết đến là loài ăn thịt, cá sấu vẫn ưu tiên cá làm nguồn thức ăn chính. Rừng U Minh Hạ với đặc trưng tràm úng phì nhiêu tạo điều kiện cho cá sinh sôi nảy nở nhanh chóng, trở thành “thiên đường” cho loài cá sấu. Khi mùa khô đến, cá sấu không cần phải trở về sông lớn mà trú ẩn trong các ao, lung rải rác khắp rừng, tạo thành những “căn cứ địa” sinh sản và phát triển qua nhiều năm.

Câu chuyện về sự “xâm chiếm” của cá sấu trong rừng U Minh Hạ chỉ thực sự được người dân biết đến khi người Việt bắt đầu khai khẩn vùng đất này. Ban đầu, họ chỉ nghĩ cá sấu sống ở sông rạch, nhưng sau khi bắt được vài con ở ngọn rạch, họ tin rằng số lượng cá sấu đã giảm đi đáng kể. Cho đến khi có người đi rừng ăn ong về báo tin:

– Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!

Lời so sánh ấy không hề ngoa. Dân làng kéo nhau lên rừng chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng: những ao nước rộng cả công đất, bờ lau sậy um tùm, nơi cá sấu chen chúc nhau, con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì ngóc đầu lên trời như họng súng thần công. Chúng điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá, chẳng hề sợ hãi trước sự xuất hiện của con người. Duy chỉ có con sấu già, với đốm đỏ giữa tam tinh, được cho là “sấu chúa” khôn ngoan và hung dữ, lùi vào giữa ao thủ thế.

Biết rằng mác thông, lao, ná lãy vô dụng trước loài “thủy quái” này, dân làng đành rút lui. Ao quá cạn để chống xuồng, mà lội bộ thì bùn lún ngập gối. Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu trở thành nỗi ám ảnh của người dân.

Tin về ao sấu lan truyền đến tai ông Năm Hên, một thợ bắt sấu lão luyện từ vùng Rạch Giá. Ông tìm đến làng Khánh Lâm với chiếc xuồng ba lá nhỏ, mang theo lọn nhang trần và hũ rượu. Ngày ngày, ông bơi xuồng dọc theo rạch và hát:

Hồn ở đâu đây?

Hồn ơi! Hồn hỡi!

Xa cây xa cối,

Đầu bãi cuối gành,

Hùm tha, sấu bắt,

Bởi vì thắt ngặt,

Manh áo chén cơm,

U Minh đỏ ngòm

Rừng tràm xanh biếc!

Ta thương ta tiếc,

Lập đàn giải oan…

Giọng hát ai oán, rùng rợn khiến dân làng tò mò. Họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi và biết được ông là người có tài bắt sấu. Ông Năm Hên tự tin khẳng định mình là “thợ bắt sấu trên khô, không cần lưỡi”, và bắt bằng… hai tay không!

Dân làng nửa tin nửa ngờ. Họ chưa từng nghe đến cách bắt sấu kỳ lạ như vậy. Ông Năm Hên giải thích rằng ông biết mưu mẹo chứ không phải bùa phép. Nghề bắt sấu có thể làm giàu, nhưng ông không màng danh lợi. Ông kể về người anh trai bị sấu bắt mất ở Gò Quao, và lời thề trả thù cho anh. Ông căm phẫn những địa danh mang tên “Đầm Sấu”, “Lung Sấu”, “Bàu Sấu”, những nơi từng là nỗi kinh hoàng của người dân khi xưa.

Sáng hôm sau, ông Năm Hên cùng Tư Hoạch, một tay ăn ong rành địa thế, dẫn đường đến ao sấu. Ông dặn mọi người ở lại, vì đi đông sẽ gây ồn ào. Mọi người nôn nóng chờ đợi tin tức.

Đến quá trưa, họ thấy một làn khói đen bốc lên từ phía ao sấu. Ai nấy đều lo lắng, chuẩn bị cơm rượu ăn mừng. Đến chiều, họ nghe tiếng kêu réo của Tư Hoạch:

– Bà con ơi! Ra coi sấu… Bốn mươi lăm con còn sống nhăn!

Tư Hoạch đang ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát. Theo sau là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức cho Tư Hoạch.

Dân làng kinh ngạc, người thì toan chạy trốn, người thì khấn vái, người thì bơi xuồng ra xem cho rõ. Họ rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít. Tư Hoạch kể lại kế hoạch tài tình của ông Năm Hên:

Đào một đường nhỏ từ bờ ao lên rừng, châm lửa đốt sậy đế để sấu bò lên bờ trốn khói. Khi sấu hả miệng táp, ông Năm Hên nhét khúc mốp vào miệng, khiến sấu không thể khép miệng lại. Sau đó, ông cắt gân đuôi sấu, trói hai chân sau và để hai chân trước tự do bơi.

Mọi người đều thán phục tài trí của ông Năm Hên và muốn đền ơn ông. Tư Hoạch cho biết ông Năm Hên đang ở lại cúng “đất đai vương trạch” rồi sẽ về sau.

Vừa dứt lời, họ nghe tiếng hát của ông Năm Hên từ phía bờ sông:

Hồn ở đâu đây?

Hồn ơi! Hồn hỡi!

Xa cây xa cối,

Đầu bãi cuối gành,

Hùm tha, sấu bắt,

Bởi vì thắt ngặt,

Manh áo chén cơm,

U Minh đỏ ngòm

Rừng tràm xanh biếc!

Ta thương ta tiếc,

Lập đàn giải oan…

Ông bước ra khỏi rừng với áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.

– Coi tướng của ông ghê như tướng thầy pháp! Một người thốt lên.

Những tiếng khóc sụt sùi vang lên. Những cụ già, bà lão nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè đã bỏ thây vì đàn sấu. Bó nhang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không?

Câu chuyện về “Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ” không chỉ là huyền thoại về một thợ bắt sấu tài ba, mà còn là ký ức về một thời khai hoang đầy khó khăn và nguy hiểm, nơi con người phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt và những loài “thủy quái” hung dữ.

Exit mobile version