Site icon donghochetac

Bài Thơ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây: Tình Yêu và Khát Vọng Giải Phóng

Phạm Tiến Duật, nhà thơ cách mạng của văn học Việt Nam hiện đại, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả qua những vần thơ thấm đượm tình yêu quê hương, đồng đội và khát vọng hòa bình. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông không chọn con đường sư phạm mà quyết định nhập ngũ, dấn thân vào cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Chính trong môi trường khốc liệt ấy, thơ ca Phạm Tiến Duật đã nảy nở, trở thành tiếng nói của cả một thế hệ.

Bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” ra đời cuối năm 1969 tại Quảng Bình, nhanh chóng trở thành hành trang tinh thần không thể thiếu của người lính trên tuyến lửa. Khi được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc, bài thơ càng lan tỏa mạnh mẽ, thôi thúc triệu trái tim Việt Nam hướng về tiền tuyến, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ nhung da diết của đôi lứa yêu nhau, bị chia cắt bởi dãy Trường Sơn hùng vĩ và bom đạn chiến tranh:

“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”

Cấu trúc thơ giản dị, dễ nhớ, mang âm hưởng đời thường và đậm chất lính, kết hợp hài hòa giữa trữ tình và hùng ca. Nó truyền lửa vào trái tim người chiến sĩ, đồng thời thể hiện cảm xúc lớn lao của thời đại, của cả một dân tộc.

.png)

Hình ảnh biểu tượng người lính trong bài thơ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, thể hiện tinh thần chiến đấu và tình yêu nước mãnh liệt.

Phạm Tiến Duật, sau khi hoàn thành khóa học sư phạm, đã tình nguyện nhập ngũ, khao khát được trải nghiệm thực tế chiến trường. Ông xin vào Tiểu đoàn Pháo cao xạ Tây Bắc, rồi chuyển về Cục Vận tải quân sự, Tổng cục Hậu cần, để được trực tiếp chứng kiến và cảm nhận sự tàn khốc của chiến tranh.

“Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Hết rau rồi, em có lấy măng không”

Tình yêu nước hòa quyện với tình yêu đôi lứa, trở thành động lực mạnh mẽ, thôi thúc bước chân người chiến sĩ. Trường Sơn huyền thoại đã tôi luyện nên một Phạm Tiến Duật bản lĩnh, tài hoa, có sức mạnh định hình một tính cách, một số phận. Chính cuộc sống trong khói lửa đã thắp lên ngọn lửa sáng tạo trong trái tim nhà thơ. Không chỉ mình Phạm Tiến Duật, mà cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn măng rừng và đồng đội đã cùng ông viết nên bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” vừa hài hòa, vừa đẹp đẽ, vừa giàu giá trị nhân văn.

Hình ảnh người lính lái xe trên đường Trường Sơn, minh họa cho sự gian khổ, hy sinh và tinh thần lạc quan của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Gắn bó với núi rừng Trường Sơn, với những người lính ngày đêm chiến đấu, Phạm Tiến Duật luôn giữ vững tinh thần lạc quan. Ông nhìn nhận mọi thứ, kể cả những khó khăn, mất mát, qua lăng kính hồn nhiên, dí dỏm:

“Đông sang Tây không phải đường như
Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Đông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh”

Chiếc xe trở thành người bạn đồng hành tin cậy, cùng Phạm Tiến Duật vượt qua những dặm đường gian khổ, đến với những trận địa ác liệt.

“Từ nơi em đưa đến nơi anh
Những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn”

Niềm tin vào chiến thắng được Phạm Tiến Duật khắc họa bằng hình ảnh đoàn quân hùng dũng nối tiếp nhau ra trận, trong không khí sục sôi, hào hùng. Tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước hòa quyện, trở thành mạch sống dâng trào trong tâm hồn người lính Trường Sơn.

Cho đến ngày nay, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” vẫn là một bài thơ sống mãi trong lòng độc giả. Đối với những người lính Trường Sơn năm xưa, đây là bài thơ bất tử, là biểu tượng của tình đồng đội và niềm tự hào về một thời oanh liệt. Bài thơ được viết từ cảm hứng lịch sử, bằng tiếng lòng chân thành, tình cảm sâu sắc và niềm tin tất thắng của những người lính Trường Sơn.

Exit mobile version